Hành Hoả gồm 6 nạp âm: Lư Trung Hoả (Lửa trong lò), Sơn Đầu Hoả (lửa đầu/đỉnh núi), Tích Lịch Hoả (Lửa sấm sét), Sơn Hạ Hoả (Lửa dưới núi), Phú Đăng Hoả (Lửa đèn dầu), Thiên Thượng Hoả (Lửa trên trời).
Trong 6 nạp âm đó thì 4 nạp âm là Phú Đăng Hoả, Lư Trung Hoả, Sơn Đầu Hoả, Sơn Hạ Hoả khi gặp hành Thuỷ là khắc kỵ. Lửa này khi gặp nước ắt sẽ bị dập tắt, đúng nghĩa Thuỷ khắc Hoả, thuộc diện khắc nhập mất phần phúc.
Còn Thiên Thượng Hoả và Tích Lịch Hoả lại cần kết hợp với hành Thuỷ bởi khi có nước thì càng phát huy được tính chất, khí âm (thuỷ) gặp khí dương (hoả) sẽ gây ra sấm sét. Nên kết hợp với nhau mới phát huy được tối đa tính chất, cuộc đời sẽ càng sáng lạn hơn.
Tích Lịch Hoả nghĩa là lửa sấm sét, đột nhiên phát ra âm thanh vang động. Tích Lịch Hoả lẫm liệt như tiếng sấm vang, nhanh tựa tia điện. Nhưng Hoả này phải có nước, gió, lửa, lôi tương trợ thì mới có thể biến hoá. Những người sinh năm Mậu Tý (1888, 1948, 2008) và Kỷ Sửu (1889, 1949, 2009) là thuộc ngũ hành nạp âm Tích Lịch Hoả.
Lư Trung Hoả nghĩa là lửa trong lò. Lư Trung Hoả được xem là một loại lò có lửa cực mạnh, cháy rất lâu, có sức nóng cực kì lớn. Những người sinh năm Bính Dần (1986), Đinh Mão (1987) là thuộc hành Lư Trung Hoả.
Phúc Đăng Hoả nghĩa là lửa đèn dầu, được xem là một ngọn lửa ấm phát ra từ chiếc đèn mang đến sự sung túc, hạnh phúc cho con người. Phúc Đăng Hoả lấy nhật nguyệt làm đèn, ánh sáng phủ khắp nơi thì đèn này lớn.
Nếu là loại đèn để thường thì ánh sáng bị hạn chế nên đèn này, lửa này thì nhỏ. Giữa ban ngày, ánh lửa đèn không thể phát huy tác dụng. Những người sinh năm Giáp Thìn (1904, 1964, 2024) và Ất Tỵ (1905, 1965, 2025) có ngũ hành nạp âm là Phúc Đăng Hoả.
Thiên Thượng Hoả nghĩa là Lửa trên trời. Một nguồn ánh sáng vô cùng to lớn lan toả khắp vùng trời, đất bao la hoặc nói cách khác nguồn ánh sáng lan toả đến khắp mọi nơi. Lửa trên trời có 02 loại là Thái Dương và Thái Âm. Thái Dương nghĩa là cao quý, chiếu rọi thiên không nên còn gọi là dương cương hoả. Thái Âm nghĩa là âm đức hiền hoà, ánh sáng trắng lan toả dân gian nên gọi âm nhu hoà. Những người sinh năm Mậu Ngọ (1918, 1978) và Kỷ Mùi (1919, 1979) thuộc nạp âm Thiên Thượng Hoả.
Sơn Hạ Hoả nghĩa là ánh mặt trời sắp rơi xuống chân núi phía Tây, khí của nó sắp tàn, hình của nó sắp lụi, sức mạnh thế lực cũng vì thế mà yếu dần. Những người sinh năm Bính Thân (1956, 1869, 2017) và Đinh Dậu (1957, 1896, 2016) thuộc nạp âm Sơn Hạ Hoả.
Sơn đầu hoả dùng núi để ẩn náu, bên trong sáng lạn, rõ ràng, bên ngoài ẩn giấu bí hiểm khó lương. Ẩn mà không lộ, ánh sáng bay cao đầu vào càn rồi nghỉ ngơi.
Sơn Đầu Hoả là ngọn lửa hoang dã, sinh giữa chốn thiên nhiên nên kéo rất dài, chiếu rất xa, khi tàn thì như ánh hoàng hôn đang lặn, như ngày rơi xuống anh sáng phía Tây kia vậy. Những người sinh năm Giáp Tuất (1934, 1994) và Ất Hợi (1935, 1995) thuộc nạp âm Sơn Đầu Hoả.
Về cơ bản, người thuộc hành Hoả đã là người có nguồn năng lượng dồi dào, mạnh mẽ, quyết đoán. Vì mang các đặc tính của hành Hoả nên người mệnh Hoả khá hợp với những công việc liên quan tới lãnh đạo, truyền cảm hứng.
Họ cũng hợp với những ngành nghề kinh doanh nhà hàng, thực phẩm, công nghệ điện khí, thể thao. Các nghề nghiệp có áp lực cao như marketing, tổ chức sự kiện,.. cũng hợp với người mệnh Hoả do năng lượng của họ có thể đáp ứng được.
Nếu kết bạn với người mệnh Hoả, bạn cần sẵn sàng lắng nghe họ và bỏ qua những sự áp đặt hay sốc nổi của họ.
( Còn tiếp)
(*) Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo