Tình thương xót của mẹ với Nghĩa thấm trong từng lời dặn, từng câu chữ của lá thư: “Người ta bảo là ở rừng thì dù nhọc mệt thế nào cũng chớ có ngủ trưa, vì bị ngã nước đấy, con ạ. Hại sức lắm, mà mẹ thì ở xa chẳng lo được cho con… Mẹ lại thường hay nghĩ đến tính liều của con. Con ơi, có báo động dù chưa tiếng tàu bay vẫn phải tăng xê xuống ngay. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Thương mẹ, thương cha, con phải tự thương xót lấy mình, con nhé…
Chỗ quà này mẹ gói ra hai màu để con phân biệt. Gói bọc giấy xanh là kẹo bánh, thuốc lá thì con mời anh em bạn bè với cấp chỉ huy. Riêng thuốc lá, mẹ mong con hút ít. Nghe nói nơi các con đóng binh, người dân tộc nấu rượu sắn nhiều lắm, mẹ lo. Uống rượu, hút thuốc hỏng đời, con ạ. Còn trong gói đỏ là kim chỉ, đá lửa, pin, cặp ba lá, con phải cất kĩ. Các thứ ấy không vặt vãnh đâu, ở Hà Nội đã khó kiếm, trong Khu Bốn với bên Lào lại càng quý báu. Nặng thêm một chút nhưng con gắng mang. Phòng khi ốm đau cảm cúm, nhất là chẳng may mà sốt rét thì đem đổi lấy thịt thà, rau quả mà bồi dưỡng cho chóng lại. Mấy bà trong khối phố có con đi bộ đội trước con, họ bày kinh nghiệm cho mẹ như thế…”.
Những bức thư và gói quà mẹ nhắc đến được gửi lên Lương Sơn khi mà đơn vị của Nghĩa đã rời đi. Tất cả đều bị gửi ngược về hoàn trả. Thế nhưng, mẹ vẫn “nhẫn nại viết và nhẫn nại gửi” - gửi gấp, gửi “cầu may”, tới cái hòm thư đã hoàn phế, mong con trai mau biên thư về hoặc cho biết số hòm thư mới, để biết con đang ở đâu, sức khỏe thế nào. Nhưng theo dần năm tháng chiến tranh, thư của mẹ ngày một nhiều trang hơn, cũng ngày một buồn bã hơn. Gửi đi bao nhiêu, nhận lại bấy nhiêu, những lá thư của mẹ về sau chỉ như nhật kí, gửi cho chính mình. Những dòng chữ nắn nót, dòng nối dòng đều đều, miên man che giấu niềm vô vọng.
Nỗi đợi chờ khắc khoải ấy dần đi vào cả những giấc chiêm bao. Mẹ kể, đêm qua, mẹ nhìn thấy Nghĩa nhưng “chưa kịp gọi thì đã tỉnh, tỉnh dậy thì đã chẳng còn lại gì, chẳng nói được gì nữa cả, trong phòng tối đen, ngoài trời còi báo động hú vang”. Bức thư khác mẹ lại kể chuyện cha, cha chưa bao giờ thấy Nghĩa trong giấc ngủ nhưng lại hay thoáng thấy con trai út của mình ngoài phố. “Một lần, buổi tối, cha đưa về nhà một anh bộ đội trạc tuổi Nghĩa mà ông mới gặp ở ga Hàng Cỏ.
Nhác thấy anh ta giữa đám đông trước cửa ga, đang ngồi trên tàu điện, ông vội kêu người lái phanh gấp rồi lật đật xuống toa, lật đật chen tới chỗ anh ta, vừa chen vừa hớt hải gọi Nghĩa. Ông luôn nhầm như vậy”. Nhìn xa thì anh bộ đội nào cũng giống Nghĩa, nhìn gần thì chẳng nét hao hao nào nữa. Lần ấy, mẹ đổi hết phiếu thực phẩm cả tháng soạn bữa cơm thật tươm đãi anh bộ đội. Cha giữ anh ngủ lại, sáng hôm sau tiễn anh ra bến xe Kim Mã, xếp hàng mua vé cho anh rồi dắt anh lên tận chỗ ngồi trên xe. Anh lính trẻ ấy ý bị đạn tiện mất một bàn tay và bị mù cả hai con mắt.
Mẹ còn kể, có lần cha thấy Nghĩa ở một bức ảnh in trên báo Quân đội nhân dân chụp các chiến sĩ thông tin đang trong phiên trực tổng đài điện thoại, mẹ cũng muốn tin như thế. Nghe nói được ở trong binh chủng thông tin dù sao cũng đỡ hơn là ở bộ binh. Nhưng sáng hôm sau ngắm lại tấm hình, cha lại lắc đầu bảo rằng không phải. Và rồi cứ buồn thỉu đi suốt mấy tháng trời vì điều đó.
Câu chuyện của các bậc sinh thành có con ra chiến trường được kể bằng giọng điệu chậm, buồn, ngậm ngùi. Nỗi mong ngóng vô vọng của họ trong từng con chữ làm nhói lên trong tim người đọc niềm thương và cả nỗi đau.
Từ ngày Nghĩa đi Bê, cha mỗi năm mỗi yếu, sức lực lặng lẽ hao mòn. Rồi cái u nhỏ phát thành ung độc sưng lớn sau lưng, bệnh viện thiếu thuốc, thiếu giường, mẹ đưa cha về nhà, hai vợ chồng già bên nhau bất chấp máy bay Mỹ. Bị sự đau đớn hành hạ, cha rộc rạc, tiều tụy, uống thuốc vào nôn ra hết. Đến tuần cuối cùng, cha không ngủ vì muốn được thức trắng cho tới giờ nhắm mắt. Đêm cha ngồi bên bàn kề cửa sổ, ngả lưng vào ghế, nhè nhẹ nắm lấy tay mẹ, thì thầm gọi tên Nghĩa và mất lúc rạng mai.
Chiến tranh làm cả đất trời bùng cháy, thành phố đổ vỡ, hơi bom phá toang cửa kính. Bố mất rồi, mẹ vẫn không rời Hà Nội, đêm đêm yên lặng ngồi chỗ ngày trước cha vẫn thường ngồi. Vào một ngày tháng Chạp năm 72, mẹ viết lá thư kể cho con trai về cô bé Loan học cùng lớp ở tầng dưới, nay là cô quân y xinh đẹp, can đảm, vẫn thường chạy lên ngồi cùng mẹ bên cửa sổ, nhưng đến cuối thư, mẹ không kìm được lòng, lại thốt lên những câu hỏi xót xa:
“Mẹ biết chắc con còn sống, nhưng giờ đây con ở phương nào vậy con? Sao con lại có thể im lặng lâu như thế hở con? Không một bức thư, không một tin tức nhắn nhẹ nào cho mẹ, sao thế hả con, Nghĩa ơi?”. Tiếng gọi “Nghĩa ơi” ấy cũng là lời cuối của lá thư cuối cùng mẹ viết gửi người con trai út. Không còn lá thư nào viết vào những ngày sau đó nữa.
Những bức thư nơi đáy rương chồng chất biết bao nỗi niềm trong cõi lòng của mẹ, nhưng “tất cả những điều này mẹ chưa từng viết trong thư gửi ra nước ngoài cho Tân và các anh chị của Tân, và cũng không bao giờ kể ra lời”. Nhà văn không miêu tả cảm xúc của Tân, nhưng người đọc vẫn nhận ra một nỗi xót xa, day dứt của người kể trong cảnh huống này.
Ảnh minh họa ITN. |
Từ năm 1973, anh chị em Tân lần lượt đỗ đạt trở về, con trai, con gái, dâu rể của mẹ đều thành đạt, cháu của bà đều “khá”, đều ngoan ngoãn, giỏi giang, đều có “tương lai rất sáng”. Con của mẹ đều “thực sự một lòng hiếu thảo”. Về mặt vật chất, ba anh chị em Tân đều có mức sống cao hơn người ta, cả ba đều dư khả năng lo cho mẹ không thiếu thốn một thứ gì. Càng về sau lại càng có điều kiện chăm lo cho mẹ đầy đủ hơn. Anh chị Tân ở gần mẹ, còn Tân dù ở Sài Gòn nhưng vẫn thường xuyên ra thăm mẹ. Mẹ vẫn khỏe “chưa mắt mờ chân chậm, cũng chưa lẫn”.
Các con của mẹ - con trai, con gái, ai nấy nhà lầu, biệt thự, đều thiết tha được rước mẹ về ở cùng. Nhưng bà cụ dứt khoát không đi đâu khỏi cái tầng tư khu tập thể. Mẹ lúc nào cũng đăm chiêu ít lời, con cháu lựa lời hỏi xem có điều gì khiến mẹ không hài lòng thì mẹ lắc đầu rằng không. Các con mẹ càng “không hiểu”, khi trông mẹ “càng năm càng buồn bã hơn”.
Chỉ khi lật giở những lá thư nơi đáy rương của mẹ, Tân mới vỡ ra cái gốc của “vẻ đợi chờ âm thầm, rụt rè và vô vọng, lẳng lặng trên gương mặt mẹ suốt bao năm trời đến tận khi nhắm mắt xuôi tay”. Tân càng hiểu hơn khi “nỗi đau lòng mẹ”. Trong lòng người con, giờ đây “không khỏi đau đáu thắt trong lòng” khi biết được “nỗi thương tâm bất động của một người già” đã không làm ai phải để ý.
Câu chuyện được khép lại bởi sự vỡ òa cảm xúc của người con về mẹ khi bắt gặp những bức thư dưới đáy rương. Tình huống truyện độc đáo được nhà văn Bảo Ninh sáng tạo nên đã làm cho cốt truyện giàu tính bất ngờ.
Chiến tranh đã lùi xa, hiện thực chiến tranh trong sáng tác của văn học sau 1975 nói chung và của nhà văn Bảo Ninh nói riêng, không còn ầm vang súng đạn nhưng thương tích của nó thì vẫn mãi âm ỉ hiện diện trong cuộc sống con người. Nhưng ở ranh giới mong manh của sự sống, những giá trị bền vững của con người vẫn tồn tại, vẫn tỏa sáng, vẫn đem lại cho người đọc nhiều cảm xúc.