Người đại tiện lỏng, tỳ vị hư hàn không nên dùng.
Theo tài liệu tại Ấn Độ, cỏ nhọ nồi được dùng trị bệnh gan, vàng da và làm thuốc bổ tổng quát, ăn khó tiêu, choáng váng, chữa đau răng, giúp lành vết thương. Tại Trung Quốc, toàn cây làm chất cầm máu, trị đau mắt, ho ra máu, tiểu ra máu, đau lưng, sưng gan, vàng da.
Tại nước ta, Viện Dược liệu từng nghiên cứu tác dụng cầm máu và độc tính của cỏ nhọ nồi cho thấy cây có khả năng chống lại tác dụng của dicumarin (thuốc chống đông), cầm máu ở tử cung, tăng trương lực tử cung...
Vị thuốc này còn được dùng trong điều trị sốt xuất huyết, bệnh nha chu, trị sưng gan, sưng bàng quang, sưng đường tiểu, trị mụn nhọt đầu đinh, bó ngoài giúp liền xương… hỗ trợ điều trị ung thư và nhiều bệnh khác.
Theo tài liệu của Trung Quốc, để hỗ trợ chữa ung thư, cỏ nhọ nồi được dùng phối hợp với những vị thuốc khác trong ung thư dạ dày, tử cung, xương, bạch huyết, họng. Trong đó, để hỗ trợ chữa ung thư họng, chỉ dùng mỗi vị cỏ mực 50g tươi vắt nước uống hàng ngày hoặc sắc nước uống.
Về độc tính của Nhọ nồi
Thử trên chuột bạch với liều từ 5-80 lần liều lâm sàng không có triệu chứng trúng độc.
Công dụng và liều dùng
Tính vị: Theo tài liệu cổ, cỏ nhọ nồi có vị ngọt, chua, tinh lương vào hai kinh can và thận, tác dụng bổ thận âm, chỉ huyết lị. Dùng chữa can thận âm kém, lỵ và ỉa ra máu, làm đen râu tóc.
Nhân dân vẫn dùng cây nhọ nồi giã vắt nước uống để cầm máu trong rong kinh, trĩ ra máu, bị thương chảy máu. Nhiều người còn dùng chữa ho hen, ho lao, viêm cổ họng. Ngày dùng từ 6-12g, dạng sắc uống hoặc làm thành viên. Những người thợ nề dùng cỏ nhọ nồi xoa tay chữa bỏng rát do vôi. Có người dùng chữa bệnh nấm ngoài da, làm thuốc mọc tóc, nhuộm tóc, bôi lên những chỗ trổ ở da thịt để có màu tím đen.
Trên đây là những tác dụng của cây nhọ nồi. Cần tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng cây nhọ nồi.