Tùy thuộc thoát vị đĩa đệm ở thắt lưng hay ở cổ mà có các triệu chứng khác nhau. Nếu thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng thì những dấu hiệu thường gặp là: Đau lưng, đau giảm khi nằm nghiêng, đau tăng lên khi ho hoặc khi đại tiện.
Đau khi gõ hoặc ấn vào khoảng liên đốt. Đau tự nhiên vùng xung quanh gai sau. Thể nặng đau lan xuống vùng mông và đùi, cùng với đau là dấu hiệu hạn chế vận động cột sống. Mất sự ưỡn của thắt lưng, gù hoặc vẹo trong tư thế dễ giảm đau.
Cứng thắt lưng, không cúi được, khoảng cách giữa ngón tay và mặt đất lớn hơn 50cm. Kế đó là dấu hiệu giảm vận động chân và giảm cảm giác vùng da chân (tuỳ theo vị trí thoát vị). Trường hợp nặng có thể liệt.
Hiện nay, để xác định thoát vị đĩa đệm rõ ràng nhất là chụp cộng hưởng từ (MRI), trên phim chụp cột sống quy ước phần lớn không phát hiện được gì bởi nhân keo đĩa đệm không cản quang hoặc chỉ phát hiện những dấu hiệu gợi ý như: cột sống lệch trục, hẹp nhẹ khoảng liên đốt sống.
Có thể nhầm thoát vị đĩa đệm với các bệnh: Thoái hoá đốt sống, viêm cột sống dính khớp, vỡ đốt sống lưng do loãng xương, lao cột sống hay u rễ thần kinh...
Các biện pháp điều trị bệnh thoát vị đĩa đệm
Các biện pháp chữa trị có thể xen kẽ áp dụng nằm nghỉ trên nền cứng, bó bột, là nóng tại chỗ (chiếu tia, xoa bóp); dùng thuốc giảm đau hoặc tiêm corticoid tại chỗ; kéo nắn cột sống, nhiều trường hợp có thể đẩy được đĩa đệm về vị trí cũ.
Sau giai đoạn cấp phải tránh tất cả những động tác quá sức như mang vác nặng, cúi gập người... Có thể chỉ định cắt là cột sống, cắt thoát vị, nạo đĩa đệm... khi có rối loạn vận động trầm trọng hoặc có những dấu hiệu ép tủy, điều trị phục hồi sau 3 tháng không có kết quả.
Một phương pháp điều trị mới được áp dụng là làm giảm áp đĩa đệm bằng laser (được thực hiện trên thế giới từ năm 1986 và ở nước ta từ 2 năm trở lại đây).
Kỹ thuật được mô tả sơ lược như sau: Dùng kim chọc vào nhân keo dưới sự hướng dẫn của X-quang truyền hình tăng sáng ba chiều. Dây dẫn của máy phát tia laser được luồn qua kim tới nhân. Khi phát tia, nhân keo bị tiêu hủy một phần nên co lại, làm giảm áp lực đè lên các dây thần kinh.
Kỹ thuật này có thể áp dụng được cho hầu hết các thoát vị đĩa đệm trừ những trường hợp quá nặng như: Khối thoát vị quá lớn, trượt đốt sống hay hẹp khe đốt nặng... Nếu không thành công có thể chỉ định phẫu thuật.