Cũng là nhân chứng của bình dân học vụ, ông Nguyễn Thìn Xuân – nguyên Chủ tịch Câu lạc bộ UNESCO Chiến sĩ diệt dốt và học tập cộng đồng Nguyễn Văn Tố - năm nay đã 98 tuổi hồi tưởng: Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục, hạn trong 6 tháng làng và thị trấn nào cũng phải có “ít ra là một lớp bình dân” và cưỡng bách học chữ Quốc ngữ trên toàn quốc.
Một ngày sau khi thành lập, để xác định cách tổ chức và hoạt động cho phong trào, Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn luyện ở Hà Nội và các miền. Giáo viên bình dân học vụ thuộc đủ các giới, lứa tuổi, hễ biết chữ là tham gia. Họ dạy học, dựng trường, tạo lớp, tìm kiếm học phẩm, cổ động học viên. Có lớp có giáo viên, nhưng có lớp giao cho người trong nhà dạy lẫn nhau, chồng dạy vợ, con dạy mẹ, anh chị dạy em.
Cách dạy cũng được cải biên cho phù hợp với tình hình dân trí lúc bấy giờ, đó là đọc lên thành tiếng, chữ cái, vần được tạo thành câu thơ lục bát, so sánh để dễ nhớ: “I, tờ (i, t) giống móc cả hai/ I ngắn có chấm, tờ dài có ngang. O tròn như quả trứng gà/ Ô thì đội mũ, Ơ thời thêm râu”.
Dụng cụ học tập thiếu thốn, người học dùng chõng tre, cánh cửa làm bàn; bảng viết là bức tường, cánh cửa, tấm phản dựng lên; phấn là gạch non, đất sét, than củi; lá chuối khô, mo cau thay giấy; còn mực thì dùng bất cứ hoa, cây có thể làm màu. Bàn không có thì úp ngược thúng để kê. Vở ghi không có, người dân rải cát ra sân, cầm que tập viết chữ, viết xong rồi xóa lại học viết chữ khác.
Lúc bấy giờ, Hà Nội có phong trào cứ đến tối thứ 2, thứ 5, tất cả các cơ quan phải đi học, từng cơ quan Trung ương phải thành lập Ban Học tập. Bộ trưởng là Trưởng ban Học tập, Thứ trưởng là Tổ trưởng đứng ra kêu gọi tất cả mọi người đi học. Từ tối thứ 2 đến tối thứ 5, tất cả mọi người đều thắp đèn đi học, thành phong trào. Khách nước ngoài đến thăm thích nhất là phong trào ấy.
Một lớp học bình dân học vụ năm 1945. Ảnh tư liệu |
GS.TS Phạm Tất Dong - Nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam – đánh giá, phong trào Bình dân học vụ đã để lại nhiều bài học vô cùng quý giá, còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Thứ nhất, bình dân học vụ theo đuổi mục tiêu đúng đắn là phải để mỗi người dân được tiếp cận với giáo dục bằng cách tạo cơ hội đi học. Đây là bài học đắt giá và quan trọng nhất mà đến nay khi triển khai xã hội hóa học tập, việc này vẫn là ưu tiên số một.
Thứ hai, giáo dục phải đi vào cộng đồng, quần chúng lao động. Nếu chỉ phục vụ cho những người có tiền, ở tầng lớp thượng lưu, giáo dục không trọn vẹn ý nghĩa. Để toàn dân có thể đi học, những trung tâm học tập cộng đồng, thường xuyên cần được thành lập. Những nơi này gần gũi với người dân, thuận tiện đi lại tương tự lớp bình dân học vụ xưa được tổ chức ngay tại làng, xã.
Thứ ba, giáo dục và các mục tiêu học tập cụ thể luôn cần gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Trước kia, việc xóa mù ngoài giúp dân biết chữ, có hiểu biết còn gắn với mục tiêu chính trị. Ngày nay, bài học này thể hiện ở việc phát triển giáo dục gắn với yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, gắn với chương trình chuyển đổi số.
Ông Dong đánh giá, so với những ngày đầu cách mạng Việt Nam chống “giặc dốt”, xóa mù chữ cơ bản, hiện nay người dân vẫn phải xóa mù chức năng. Điều này được hiểu là những kỹ năng không phù hợp hoặc thiếu sót với thời đại thì phải loại bỏ và học bổ sung, gọi khái quát là “xóa mù số”. Chuyển đổi số gắn liền với mọi lĩnh vực, từ kinh tế, xã hội đến văn hóa, giao thông... Xóa mù số hiện nay quan trọng như xóa mù chữ trước kia.
Với ông Nguyễn Phong Niên - nguyên Ủy viên thư ký Ủy ban Quốc gia Chống nạn mù chữ, thầy giáo trong phong trào Bình dân học vụ những năm 1951 - 1953, việc nâng cao dân trí mãi là bài học đúng đắn ở mọi thời đại, chỉ là làm như nào để phù hợp với nhiều người trong các góc độ khác nhau.
Dẫn lại quan điểm “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Niên giải thích sức mạnh của đất nước không phải chỉ nằm ở đội ngũ trí thức mà ở toàn dân. Tương tự, sức mạnh khoa học kỹ thuật không chỉ có ở người sáng tạo mà quan trọng là giúp mọi người biết dùng kỹ thuật công nghệ đó.
“Giờ chúng ta không dựng lớp tại làng, tại nhà để dạy người già sử dụng iPhone, iPad, cách làm phải khác, mới mẻ hơn. Tuy nhiên, tinh thần mà bình dân học vụ mang lại luôn đúng, đó là nâng cao dân trí, toàn dân cùng học và xây dựng đất nước lớn mạnh hơn”, ông Niên nói.
“Phong trào Bình dân học vụ đã tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp giáo dục phát triển như hiện nay. 78 năm qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào Bình dân học vụ, nền giáo dục Việt Nam đã có những phát triển vượt bậc và gặt hái được nhiều thành công.
Từ chỗ 95% dân số Việt Nam mù chữ năm 1945, đến nay, gần 100% người dân đều đã biết chữ. Năm 2023, cả nước có 76,19% đơn vị cấp tỉnh đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; 93,62% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 và 97,67% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỷ lệ người trong độ tuổi 15 - 60 tuổi biết chữ mức độ 1 và mức độ 2 lần lượt là 98,85% và 97,29%. Đây là những thành tích rất đáng tự hào”. - Cô giáo Hoàng Thu Vân - Trường THPT Nguyễn Gia Thiều (Hà Nội)