Với nguồn lực đầu tư có hạn, ưu tiên đầu tư phát triển một số cơ sở GDĐH cũng như đào tạo giáo viên trọng điểm là phù hợp, nhằm tạo ra một số “đầu tàu”. Tuy nhiên, không nên có hệ thống phân bậc cơ sở đào tạo đại học như một thứ bậc mặc định về chất lượng đào tạo, điều này không phù hợp với tinh thần tự chủ đại học.
Các trường đại học trọng điểm chỉ nên được hiểu là trọng điểm dưới góc độ đầu tư của Nhà nước. Tất nhiên, các trường này có trách nhiệm đảm bảo quy mô và chất lượng đào tạo tương xứng với đầu tư trọng điểm. Mặt khác, cơ sở GDĐH dù không phải trường trọng điểm nhưng với quyền tự chủ, vẫn có thể đào tạo chất lượng cao. Trong kinh nghiệm quốc tế, nhiều trường đai học tự giới hạn quy mô để đảm bảo chất lượng đào tạo và có tính hấp dẫn, cạnh tranh cao.
PGS.TS Trần Thành Nam. |
Do những vấn đề thuộc về lịch sử, nhiều trường đại học tại Việt Nam hiện có quy mô nhỏ và đào tạo một số ít ngành. Có những trường quy mô hoạt động dưới 2 nghìn sinh viên, đào tạo đơn lĩnh vực nên hoạt động không hiệu quả do thiếu thốn nguồn lực cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, không được hỗ trợ giữa các ngành để phát triển bền vững.
Vì vậy, những cơ sở giáo dục sau khi được đánh giá không đáp ứng chuẩn tối thiểu, không mở rộng hay phát triển được theo định hướng chiến lược đã đặt ra cần tái cấu trúc, liên kết, sáp nhập, giải thể hoặc tìm động lực mới cho phát triển. Tất nhiên giải thể chỉ là giải pháp cuối cùng.
Để cải thiện hiệu quả kinh tế và hoạt động của cơ sở giáo dục, thường có hai hướng tiếp cận là tăng quy mô và phạm vi. Tăng quy mô có nghĩa các cơ sở giáo dục đào tạo liên kết, mở thêm phân hiệu ở vùng trũng của giáo dục để tuyển thêm người học, tăng quy mô đào tạo qua đó tăng hiệu quả kinh tế.
Còn tăng phạm vi có nghĩa các cơ sở đào tạo mở thêm ngành, chương trình đào tạo mới. Nói theo cách khác, cần khuyến khích các trường đại có uy tín tăng quy mô (chủ yếu bằng cách sáp nhập với cơ sở giáo dục kém hiệu quả) và nghiên cứu thị trường để mở thêm các ngành mới và trở nên đa ngành hơn nữa.
Việc sáp nhập giữa các đơn vị có thể giúp hợp nhất nguồn lực như tài chính, nhân lực, trang thiết bị,... giúp tiết kiệm chi phí hoạt động và sử dụng hiệu quả hơn. Nó giúp tận dụng nguồn lực của đơn vị có uy tín để tạo ra các dịch vụ, sản phẩm giáo dục chất lượng cao hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, qua đó tăng uy tín tương hiệu, lợi nhuận.
Tuy nhiên việc sáp nhập không phải là giải pháp cho tất cả đơn vị yếu kém, cũng không phải quá trình cưỡng chế. Nó cần thực hiện một cách dân chủ, thận trọng, theo chiến lược, kế hoạch từng bước để đảm bảo hiệu quả phát triển cũng như tránh gây tác động tiêu cực. Vì việc sáp nhập sẽ dẫn đến quyết định phải cắt bỏ ngành, chương trình đào tạo cũ không tuyển sinh được, loại bỏ giảng viên yếu kém không đáp ứng tiêu chuẩn để nâng cao chất lượng đào tạo. Quá trình tái cấu trúc cần các nguồn lực tài chính đủ để sắp xếp lại đội ngũ, đầu tư cơ sở vật chất.
TS Phạm Kim Thư. |
Theo tôi, tuyệt đối không nên chọn giải pháp giải thể mà tìm động lực phát triển mới, tổ chức lại hệ thống quản trị để đưa các trường “hồi sinh”. Tuy nhiên, mỗi cơ sở giáo dục sẽ có hướng đi riêng phù hợp với điều kiện, mô hình.
Thứ nhất, các cơ sở GDĐH công lập nhiều năm không cải thiện quy mô đào tạo, tuyển sinh gặp nhiều khó khăn, hoạt động không hiệu quả, phần nhiều là các trường đại học địa phương.
Giải pháp với các trường này có thể là sáp nhập với đại học lớn như, mô hình Trường ĐH An Giang sáp nhập vào ĐHQG TPHCM, hay một số trường trên địa bàn sáp nhập lại như mô hình tại tỉnh Nghệ An. Cùng đó, địa phương phải đầu tư tài chính giúp các trường: Hiện đại hoá hệ thống cơ sở vật chất, nghiên cứu khoa học; đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy; mở ngành đào tạo mới, xây dựng thư viện số, thu hút cán bộ, giảng viên có trình độ cao về làm việc.
Tức là địa phương phải hỗ trợ, đầu tư cho các nhà trường không để tự lo. Ngoài ra, yếu tố quan trọng nhất để các trường tồn tại, phát triển là sinh viên sau khi tốt nghiệp phải có việc làm. Do vậy, địa phương cần có chính sách thu hút đầu tư, phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế để tạo việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Thứ hai là các trường đại học tư thục. Hiện nay, hệ thống trường đại học tư thục có đóng góp quan trọng trong đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tuy nhiên, số lượng, quy mô trường còn hạn chế, chưa đạt mục tiêu Nghị quyết 35-NQ/CP về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển GD-ĐT giai đoạn 2019 - 2025 đề ra (đến 2025 có 30% trường đại học tư thục, với tổng số sinh viên chiếm 22,5%).
Cần tìm động lực phát triển cho các trường thông qua việc hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư để các nhà đầu tư yên tâm huy động nguồn lực đầu tư phát triển trường. Đó là, sớm xây dựng, ban hành chính sách: Đảm bảo bình đẳng, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch, không phân biệt cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, người học được tiếp cận cơ hội giáo dục và hưởng lợi từ chính sách phát triển giáo dục của Nhà nước. Cơ sở giáo dục ngoài công lập được tiếp cận, thụ hưởng vốn viện trợ ODA; nguồn vốn tín dụng trong nước ưu đãi; rà soát các điều kiện đầu tư, chính sách thuế, chính sách đất đai trong lĩnh vực GD-ĐT.