Được dẫn theo tới bệnh viện từ nhỏ, Hoàng Anh Tiến tiếp nối đam mê của bố, trở thành thủ khoa khối B trường Y Dược Huế, rồi ứng viên đạt chuẩn giáo sư trẻ nhất ngành Y năm 2025.
Bác sĩ Tiến, 46 tuổi, hiện là Phó giám đốc Trung tâm tim mạch, Trưởng khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế. Anh cũng là Phó Trưởng bộ môn Nội, Trưởng Module 9 Tim mạch tại trường.
Tới nay, anh đã công bố 180 bài báo khoa học, trong đó 45 bài trên các tạp chí úy tín quốc tế; tham gia xuất bản 18 cuốn sách và hoàn thành 15 đề tài nghiên cứu khoa học. Bác sĩ Tiến được bổ nhiệm chức danh Phó giáo sư từ 2015.
Sau một thập kỷ, tháng 11 này, anh nằm trong danh sách giáo sư được Hội đồng Giáo sư Nhà nước công nhận đạt chuẩn.
"Tôi rất hạnh phúc và tự hào khi biết tin. Tôi biết ơn sự hỗ trợ của nhà trường, gia đình và bạn bè đã giúp tôi đạt học hàm này", anh Tiến nói.

Anh Tiến có bố là GS.TS Huỳnh Văn Minh, hiện là Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam. Anh kể ngày nhỏ thường được bố đưa đi cùng tới cơ quan. Được quan sát công việc của bố và nhìn bộ dụng cụ trong phòng khám, anh sớm yêu thích và cả tò mò về công việc này.
Lên cấp ba, anh Tiến đỗ vào lớp chọn A1 của trường Quốc học, Huế. Anh tự nhận có một mẹo hay: mượn sách học thêm các nơi của bạn bè để biết thêm dạng bài và "tuyệt chiêu" của nhiều thầy cô một lúc. Hết lớp 12, khi bạn bè đăng ký vào nhiều trường, anh Tiến dồn hết sức vào nguyện vọng duy nhất là trường Y. Kết quả, anh đỗ thủ khoa khối B, trường Đại học Y Dược, Đại học Huế vào năm 1997.
Theo anh Tiến, điểm đầu vào cao phần nào tạo áp lực, song cũng là động lực để anh phấn đấu suốt thời gian học đại học. Anh làm Phó bí thư Đoàn trường, tham gia nhiều hoạt động phong trào, đặc biệt về nghiên cứu khoa học từ sớm. Năm 2002, anh nhận giải nhì "Sinh viên nghiên cứu khoa học" của Bộ Giáo dục và Đào tạo, với đề tài "Đặc điểm điện tâm đồ ở vận động viên thành phố Huế".
Khoảng thời gian này, ngoài việc học trên lớp, Tiến đọc nhiều sách về nội khoa của bố. Khoa Nội của trường Đại học Y Dược Huế cũng là nơi anh bắt đầu sự nghiệp giảng dạy vào năm 2004, đi sâu vào lĩnh vực điều trị nội tim mạch. Dù đây là chuyên ngành nội khó nhất, anh Tiến rất thích vì có thể xâm nhập tối thiểu để can thiệp tim cho bệnh nhân.
Những ngày đầu đi dạy, anh Tiến hồi hộp, nhưng thích và thấy trân quý vai trò nhà giáo khi có thể truyền lại kiến thức cho các bạn trẻ. Anh đi học thêm các khóa giảng dạy về lâm sàng để nâng cao chuyên môn.
Song song, anh tham gia điều trị ở cả Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Đại học Y, Đại học Huế.
"Việc này hay ở chỗ tôi có thể giúp sinh viên nắm bắt lý thuyết. Mỗi bệnh nhân giống như một người thầy", anh nói.
Bên cạnh giảng dạy và điều trị, anh Tiến tiếp tục làm nghiên cứu khoa học, dành gần như toàn bộ thời gian hàng ngày cho công việc. Khó khăn nhất là giai đoạn học tiến sĩ, khi anh cũng mới lập gia đình. Đi làm cả ngày, hỗ trợ vợ chăm con, anh lại tiếp tục làm việc đến 2-3 giờ sáng, hôm sau lại dậy sớm đi làm.
Năm 2011, anh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, với đề tài "Nghiên cứu vai trò tiên lượng của NT-ProBNP huyết thanh và luân phiên sóng T điện tâm đồ ở bệnh nhân suy tim".
NT-ProBNP - một chất chỉ điểm tim mạch - từng được anh Tiến đưa vào đề tài "Đánh giá sự biến đổi nồng độ NT-ProBNP ở đợt cấp của suy tim mạn", đạt giải nhì tại hội nghị tim mạch miền Trung mở rộng lần thứ 3. Nghiên cứu này được đánh giá cao, do chất rất mới, có hiệu quả trong tiên lượng suy tim.
Những nghiên cứu sau này của anh Tiến đi theo hai hướng chính: một là can thiệp động mạch vành và các yếu tố nguy cơ liên quan nổi bật như ngưng thở giấc ngủ, tăng huyết áp và vữa xơ động mạch; hai là tạo nhịp tim qua da và các chỉ điểm sinh học NT-ProBNP, sST2, chỉ điểm điện học luân phiên sóng T, biến thiên nhịp tim trong tiên lượng rối loạn nhịp tim và suy tim.

Trong số những công trình đã thực hiện, anh Tiến rất thích nghiên cứu về kỹ thuật tạo nhịp, tái đồng bộ tim 2 buồng. Thay vì phải mổ để ghép tim, bệnh nhân được đặt máy tạo nhịp để đồng bộ nhịp tim, có thể hồi phục lại sau 6 tháng. Theo TS Tiến, không phải trường hợp nào cũng chọn được người ghép tim, nên kỹ thuật đặt máy này là phương pháp điều trị thay thế, giúp các bác sĩ hỗ trợ người bị suy tim giai đoạn cuối rất nhiều.
Anh cũng tâm đắc với sáng kiến kết hợp ống nghe và máy ghi âm để phát hiện bệnh ngưng thở khi ngủ - một hội chứng liên quan đến các biến cố tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột quỵ - rất khó phát hiện và có thể dẫn đến tử vong nếu không được can thiệp kịp thời. Nghiên cứu này giúp anh đạt giải xuất sắc trong Hội nghị khoa học trẻ các trường Đại học Y Dược toàn quốc lần thứ 14 vào năm 2007.
Dù vất vả "cân" cả ba việc dạy - chữa bệnh - nghiên cứu, TS Tiến nói hăng say làm việc vì đam mê. Anh hiểu những việc mình làm có ý nghĩa và giá trị đối với học trò, bệnh nhân và cả xã hội.
"Đem lại những điều tốt đẹp cho xã hội là động lực lớn nhất của tôi", TS Tiến nói.
Theo GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy, Hiệu trưởng trường Đại học Y Dược, Đại học Huế, các hoạt động chuyên môn tại bệnh viện của anh Tiến là nền tảng cho nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, bao gồm các chủ đề kỹ thuật cao, giúp công tác chăm sóc sức khỏe người dân được triển khai toàn diện hơn. Việc này còn cung cấp dữ liệu hữu ích phục vụ công tác giảng dạy ở bậc đại học và sau đại học.
GS Huy cũng đánh giá cao thầy Tiến khi tích cực tham gia hoạt động của các hội nghề nghiệp trong nước và quốc tế, quá đó tạo ra các cơ hội phát triển chuyên môn nghề nghiệp của bản thân và sự lớn mạnh của trường.
Anh Tiến cho hay sẽ cố gắng bám sát xu hướng phát triển của y học hiện đại, đặc biệt là ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào điều trị và giảng dạy.
"Trách nhiệm của tôi vẫn là đào tạo cho thế hệ đi sau có kiến thức tốt, làm chủ được công nghệ để phục vụ cho sức khỏe nhân dân", anh nói.