Vì thế, việc Bộ GD&ĐT ban hành quy định về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học, trong đó có tiêu chí về tỷ lệ sinh viên có việc làm, tự tạo việc làm là cần thiết. Từ đây, các trường đại học có thêm “thước đo” để không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu của người học và nhà tuyển dụng. “Tuy nhiên, việc khảo sát cần thực hiện bài bản, khoa học, thực chất và không nên tự ‘bốc thuốc’”, TS Văn Đình Ưng nêu quan điểm, đồng thời cho rằng, cơ quan quản lý Nhà nước cần có công cụ để kiểm chứng số liệu mà các trường đưa ra, tránh tình trạng trường “làm đẹp” con số.
Theo ông Bùi Tiến Dũng - chuyên viên chính Vụ Giáo dục Chính trị và Công tác Học sinh, sinh viên (Bộ GD&ĐT), sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp là chỉ số quan trọng tác động lên tỷ lệ việc làm chung của cả nước. Những năm gần đây, thống kê của các trường về số sinh viên có việc làm sau 3 tháng đến 1 năm tương đối cao nhưng cũng cần kiểm chứng.
Thực tế cho thấy, kết quả thống kê về tỷ lệ sinh viên có việc sau tốt nghiệp còn tùy thuộc vào số người tham gia khảo sát có trả lời hay không, PGS.TS Trần Xuân Nhĩ – nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT nhìn nhận. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào cách thức thống kê và quan điểm của trường. Đó là chưa kể việc phản hồi của sinh viên chính xác hay không.
“Tôi muốn nhấn mạnh tinh thần tự giác và đề cao trách nhiệm của các trường đại học. Ngoài ra, cần có thống kê “đối chứng” khác để bảo đảm tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm là số liệu thực”, PGS.TS Trần Xuân Nhĩ trao đổi.
Nhấn mạnh nguyên tắc xây dựng Chuẩn cơ sở giáo dục đại học, TS Nguyễn Thị Thu Thủy - Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) cho hay, các tiêu chuẩn là yêu cầu tối thiểu mà cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng, được đánh giá theo tiêu chí và kiểm chứng qua minh chứng, chỉ số tương ứng.
Hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số của chuẩn được xây dựng để bao quát những điều kiện và kết quả hoạt động chủ yếu của các cơ sở giáo dục đại học, đảm bảo tính thực tiễn, thiết thực, khả thi, có thể định lượng; có những nội dung có thể mang tính định tính nhưng phải cụ thể, đơn giản, ngắn gọn, dễ đo lường và kiểm chứng.
Ngoài ra, hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số của chuẩn được xây dựng đảm bảo tính kế thừa các quy định của Việt Nam nhưng không quy định lại các nội dung mà văn bản quy phạm pháp luật khác đã đề cập, định hướng tương thích với các chuẩn giáo dục đại học thông dụng trên thế giới (đối sánh quốc tế) nhưng đảm bảo phù hợp với điều kiện, bối cảnh Việt Nam.
Cũng theo TS Nguyễn Thị Thu Thủy, việc xây dựng chuẩn cần đặt lợi ích người học là trọng tâm, toàn xã hội có thể giám sát, đánh giá để cơ sở giáo dục đại học thực hiện trách nhiệm giải trình với các bên liên quan. Hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số của chuẩn được xây dựng đảm bảo tính thống nhất của hệ thống giáo dục đại học, đồng thời tôn trọng sự đa dạng của từng loại cơ sở giáo dục đại học.
Theo TS Nguyễn Thị Thu Thủy, các tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ số được xem xét quy định theo hướng áp dụng cho tất cả cơ sở giáo dục đại học, hoặc chỉ áp dụng theo đặc thù từng loại cơ sở; cũng có thể thời điểm áp dụng khác nhau cho các loại cơ sở giáo dục đại học có đặc thù riêng.