Chính sách giáo dục

"3 đột phá" để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu

05/11/2025 10:11

Giáo dục được xác định là một trong ba đột phá chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Nhưng để tinh thần “giáo dục là quốc sách hàng đầu” thực sự đi vào cuộc sống, theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, cần đột phá mạnh mẽ về hạ tầng, nhân lực và cơ chế – 3 trụ cột quyết định chất lượng và công bằng trong tiếp cận giáo dục.

Giáo dục và đào tạo được xác định là một trong ba đột phá chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, với mục tiêu phát triển con người toàn diện, thúc đẩy công bằng trong tiếp cận cơ hội học tập và hội nhập quốc tế.

‎Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức - Nguyên Chủ tịch hội đồng Trường Đại học Công nghệ (ĐHQGHN), để tinh thần "giáo dục là quốc sách hàng đầu" của Nghị quyết 71/NQ-TW đi vào thực tế, điều quan trọng là đảm bảo công bằng cơ hội học tập và chất lượng giữa các vùng miền.

"Những năm qua, giáo dục và đào tạo của chúng ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, chênh lệch về chất lượng và điều kiện học tập giữa thành thị, nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa vẫn còn rất lớn", GS Đức nhận định.

Ông cho rằng có ba "điểm nghẽn" cần tháo gỡ: hạ tầng giáo dục chưa đồng đều, nguồn nhân lực giáo viên mất cân đối, và chính sách đầu tư còn manh mún.

Vì vậy, GS Đức cho rằng, cần đột phá về đầu tư hạ tầng số và đào tạo giáo viên, tăng cường ứng dụng công nghệ và mô hình giáo dục linh hoạt (ví dụ: lớp học kết nối, học liệu mở, nền tảng trực tuyến dùng chung), đồng thời xây dựng chính sách thu hút, đãi ngộ giáo viên về vùng khó khăn. GS khẳng định: "Khi đó, giáo dục thực sự mới trở thành "quốc sách hàng đầu" và nhanh chóng thu hẹp chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa các vùng miền".

GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhấn mạnh cần đột phá về hạ tầng, nhân lực và cơ chế

Lộ trình đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai cần gắn với năng lực thực tế

Theo GS Nguyễn Đình Đức, đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai và phát triển năng lực số ngay từ phổ thông là một định hướng đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Việt Nam trong hội nhập quốc tế và chuyển đổi số quốc gia. Tuy nhiên, để tránh tình trạng triển khai hình thức, chúng ta cần thực hiện theo lộ trình hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và gắn với thực tế năng lực từng vùng.

Trước thực trạng này, ông đề xuất triển khai theo ba bước:

Thứ nhất, cần xây dựng nền tảng hạ tầng và chuẩn năng lực cho đội ngũ giáo viên tiếng Anh ở cả phổ thông và đại học. Đại học phải đi đầu, trong khi phổ thông cần được đầu tư đồng bộ về hạ tầng số, đặc biệt ở vùng khó khăn. Việc bồi dưỡng giáo viên nên gắn với các hình thức trực tuyến kết hợp, ứng dụng AI để nâng cao hiệu quả và mở rộng tiếp cận.

Thứ hai, nên triển khai thí điểm tại các đô thị lớn và một số địa phương đại diện vùng miền, đánh giá hiệu quả trước khi nhân rộng, tránh làm ồ ạt, hình thức.

Thứ ba, phát triển hệ sinh thái học tập số và kho học liệu mở dùng chung toàn quốc. Việc xây dựng nền tảng dạy – học song ngữ, ứng dụng công nghệ và AI sẽ giúp mọi học sinh tiếp cận cùng một nội dung chuẩn, dù ở bất kỳ đâu.

Cũng theo GS Nguyễn Đình Đức, điều quan trọng là xem tiếng Anh, ngoại ngữ và năng lực số như những năng lực nền tảng, không phải các môn học riêng biệt. Đây là công cụ để học tập, giao tiếp và làm việc hiệu quả trong thời kỳ toàn cầu hóa. Khi đó, việc dạy và học tiếng Anh, kỹ năng số mới thực sự đi vào chiều sâu và mang lại hiệu quả bền vững.

Ông cho rằng "đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là một bước đi lớn, cần có tầm nhìn dài hạn, và đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo thành lập Ban chỉ đạo riêng để triển khai lộ trình này một cách bài bản".

Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là một bước đi lớn, cần có tầm nhìn dài hạn - Ảnh: VGP/Thu Trang

Trọng dụng nhân tài phải bắt đầu từ cơ chế thực thi

Trong nhiều văn kiện của Đảng đã khẳng định, "trọng dụng nhân tài" và "đãi ngộ người thầy" là nền tảng của phát triển bền vững quốc gia. Gần đây, sau Nghị quyết 57/NQ-TW, Nhà nước đã có nhiều chính sách cụ thể như Nghị định số 179/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 của Chính phủ, Luật KHCN & ĐMST mới được Quốc hội ban hành năm 2025 và gần đây nhất là Quyết định số 983/QĐ-BNV phê duyệt lĩnh vực và vị trí việc làm ưu tiên thu hút, trọng dụng người có tài năng của Bộ Nội vụ giai đoạn 2025 – 2030.

Tuy nhiên, để những chủ trương ấy không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu hay văn bản, điều quan trọng nhất là phải thay đổi cơ chế thực thi – đặc biệt là cơ chế sử dụng, đánh giá và đãi ngộ đội ngũ trí thức, GS Nguyễn Đình Đức đề xuất ba thay đổi trọng tâm:

Đổi mới tuyển chọn và sử dụng nhân tài, coi năng lực, hiệu quả công việc là tiêu chí cốt lõi thay vì thâm niên.

Cải cách chính sách đãi ngộ, gắn thu nhập và cơ hội phát triển với giá trị sáng tạo thực tế.

Xây dựng môi trường học thuật cởi mở, bảo vệ quyền tự do nghiên cứu và khuyến khích sáng tạo.

GS Đức nhấn mạnh, "Chỉ khi chuyển từ ‘tuyên bố trọng dụng’ sang ‘trọng dụng, sử dụng nhân tài’ bằng thể chế và cơ chế trọng dụng , đãi ngộ trên thực tế, thì mới phát huy hết tiềm năng của đội ngũ trí thức và mới thực sự trở thành động lực sáng tạo và là trụ cột của quốc gia".

Tự chủ đại học phải gắn với minh bạch và kiểm định độc lập

Tự chủ đại học là xu thế tất yếu của giáo dục hiện đại, vì chỉ khi các trường được trao quyền thực sự thì mới phát huy được sáng tạo, huy động được nguồn lực xã hội, và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu. Tuy nhiên, tự chủ không có nghĩa là "tự do tuyệt đối", mà phải đi đôi với trách nhiệm giải trình, minh bạch và kiểm định độc lập. Để tránh tình trạng "thả nổi", GS Nguyễn Đình Đức cho rằng Việt Nam cần xây dựng mô hình giám sát đa tầng, kết hợp giữa tự giám sát nội bộ, kiểm định độc lập bên ngoài, và giám sát xã hội, bao gồm:

Thứ nhất, mỗi trường đại học cần xây dựng hệ thống quản trị hiện đại, công khai các chỉ số về tài chính, nhân lực, đào tạo, nghiên cứu và việc làm của sinh viên. Minh bạch là hình thức giám sát hiệu quả nhất.

Thứ hai, củng cố các trung tâm kiểm định chất lượng độc lập, đủ năng lực và quyền hạn để đánh giá khách quan mọi cơ sở giáo dục, kể cả đại học công lập. Kết quả kiểm định phải được công khai và gắn với xếp hạng, tuyển sinh và phân bổ ngân sách.

Thứ ba, tăng cường giám sát xã hội và phản biện học thuật, để người học, nhà tuyển dụng và giới chuyên môn cùng tham gia đánh giá chất lượng giáo dục đại học.

GS nhấn mạnh, khi quản trị dựa trên dữ liệu, minh bạch và trách nhiệm giải trình trở thành văn hóa, thì tự chủ không phải là "thả nổi", mà là trao quyền để nâng cao chất lượng thật – đúng tinh thần mà Đảng và Nhà nước đã định hướng trong đổi mới giáo dục đại học.

Tự chủ đại học là xu thế tất yếu của giáo dục hiện đại, vì vậy, càng cần phải minh bạch và kiểm định độc lập

Hội nhập quốc tế: Thu hút nhân tài, hình thành trung tâm xuất sắc

Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu và là thước đo năng lực của nền giáo dục hiện đại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Việt Nam vẫn chưa trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà khoa học hàng đầu thế giới. Theo GS Nguyễn Đình Đức, để biến các trường đại học thành trung tâm khoa học – công nghệ tầm khu vực, chúng ta cần những chính sách đột phá và thực chất, chứ không chỉ là lời mời hợp tác mang tính hình thức với bốn hướng đột phá then chốt

Thứ nhất, xây dựng môi trường học thuật và nghiên cứu quốc tế hóa thực chất. Cần tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế tham gia giảng dạy, hướng dẫn, công bố chung và chia sẻ hạ tầng nghiên cứu với Việt Nam. Tiếng Anh nên trở thành ngôn ngữ làm việc trong các chương trình tiên tiến và nhóm nghiên cứu mạnh.

Thứ hai, cải cách cơ chế tài chính, tập trung đầu tư hình thành các trung tâm xuất sắc (Center of Excellence) có quy mô, thiết bị hiện đại và cơ chế vận hành linh hoạt, đủ sức thu hút nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia quốc tế.

Thứ ba, mở rộng quyền tự chủ trong hợp tác quốc tế và quản trị nhân sự, cho phép các trường chủ động ký kết, trả lương cạnh tranh, mời giáo sư thỉnh giảng, đồng hướng dẫn tiến sĩ, không bị ràng buộc bởi thủ tục hành chính.

Thứ tư, xây dựng thương hiệu học thuật và uy tín quốc tế thông qua công bố, xếp hạng, và sản phẩm khoa học – công nghệ có giá trị thực tiễn. Khi đó, Việt Nam không chỉ "tham gia hội nhập" mà còn có thể "định hình hội nhập" trong chuỗi tri thức toàn cầu.

Nhìn từ những đề xuất của GS Nguyễn Đình Đức có thể thấy, để giáo dục thực sự trở thành động lực phát triển quốc gia, cần một hệ thống thể chế đồng bộ, từ đầu tư hạ tầng, phát triển đội ngũ, đến cơ chế trọng dụng và tự chủ đại học. Khi "trao quyền gắn với trách nhiệm", "đãi ngộ gắn với giá trị sáng tạo" và "hội nhập gắn với bản sắc", giáo dục Việt Nam mới có thể bước vào giai đoạn phát triển thực chất và bền vững.

Theo baochinhphu.vn
https://baochinhphu.vn/3-dot-pha-de-giao-duc-thuc-su-la-quoc-sach-hang-dau-102251104223348149.htm
Copy Link
https://baochinhphu.vn/3-dot-pha-de-giao-duc-thuc-su-la-quoc-sach-hang-dau-102251104223348149.htm
Bài liên quan
Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố Kế hoạch tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2026
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa có quyết định số 3037/QĐ-BGDĐT ban hành Kế hoạch triển khai công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2026 với nhiều nội dung quan trọng.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
"3 đột phá" để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu