Lại có nơi: Tiện nẻo vãng lai, là nơi thành thị. Tán đầu khăn họp khách bốn phương; xe dù ngựa dong đường thiên lý. Đủng đỉnh túi thơ bầu rượu, nặng cổ thằng hề; dập dìu quần sả, áo nghê, dầu lòng con tí.
Diên đại mại châu châu, ngọc ngọc, nhiều chốn phồn hoa; viện thu thiên ỷ ỷ là là, mười phần phú quý.
Xem phong cảnh chỉn đã khác thường; gẫm tạo hóa thật đà có ý.
Thửa mặc: Trời sinh chúa thánh; đất có tôi lành. Bói quẻ Kiền đòi thời mở vận; phép hào Sư lấy luật dùng binh.
Đất ba phần có thừa hai, chốn chốn đều về thanh giáo; nhà bốn bể vây làm một, đâu đâu ca xướng thái bình.
Chín lần nhật nguyệt làu làu, cao đường hoàng đạo; ngàn dặm san hà chăm chắm, khỏe thế vương thành.
Hình thế ấy khen nào còn xiết; phong cảnh này thực đã nên danh”.
Bấm đốt tránh nạn
Theo nhà văn Nguyễn Văn Toại cũng là người làng Dòng Xuân Lũng, thì chi tiết “bèn từ tạ trở về” như Lê Quý Đôn đã dẫn chính là tinh thần của chữ “Dật” mà không phải là chữ “Ẩn”. Cho nên, cổng đền thờ Nguyễn Hãng ở xóm Chùa xã Xuân Lũng có ba chữ Hán: Dật sĩ từ.
Vì nhà Mạc tiếm ngôi, Nguyễn Hãng trở về Xuân Lũng, không tham gia các kỳ thi tuyển tiến sĩ do nhà Mạc, một vương triều rất biết chiêu hiền đãi sĩ tổ chức, cũng đồng nghĩa với hành vi chống đối chính thể đương thời. Đó là chưa kể cái tội liên can với người em vợ là Nguyễn Mẫn Đốc đã vì phù Lê mà tuẫn tiết.
Theo các nguồn sử liệu, Nguyễn Hãng từng gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người cùng thời ở quan niệm “chí để ở sự nhàn dật”, trong khi không ít kẻ chí để ở đạo đức hoặc công danh.
Nhàn dật với Nguyễn Hãng không phải là rũ bỏ trách nhiệm với đời, lánh đục về trong. Nguyễn Hãng có biệt tài bấm số Thái ất và chính nhờ khả năng bẩm sinh này mà ông thoát họa sa vào tay quân Mạc.
Giai thoại Nguyễn Hãng bấm số Thái ất biết nhà Mạc sắp cướp ngôi, liền chạy lên Đại Đồng, đến cửa Hùng Quan và được một bà già ở đây che chở hiện vẫn còn lưu truyền ở Xuân Lũng. Cũng nhờ nắm vững khoa Thái ất thần kinh mà trong những lúc gặp biến ông đều tìm ra được những giải pháp thích hợp cho hoàn cảnh của mình.
Nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm từng thân chinh lên Tuyên Quang đánh dẹp Vũ Văn Mật, thì Nguyễn Hãng lại lên Đại Đồng tìm gặp Văn Mật với hy vọng tìm được minh chủ. Mặc dù có tài, có chí hướng cao xa nhưng khi gặp Vũ Văn Mật, Nguyễn Hãng mới nhận ra người này không có khí chất minh chủ. Xưa thời Tam quốc, Tư Mã Huy than “Ngọa Long gặp được minh chủ nhưng không gặp thời”; thì Nguyễn Hãng lại là người gặp thời nhưng không gặp minh chủ, chí hướng không được thỏa nguyện, trừ khoản nhuận bút 2000 lạng bạc.
“Nguyễn Hãng không phải mất ở quê hương như Lê Quý Đôn đã viết. Chứng cứ là sau khi nhà Lê Trung Hưng trở lại nắm quyền, con cháu họ Nguyễn Mả Nội ở Xuân Lũng đã lên Đại Đồng đưa được hài cốt của ông về quê hương, táng bên cạnh mộ em vợ ở Lũng Bô”, nhà văn Nguyễn Văn Toại cho hay.
Câu đối cổ tại miếu thờ Nguyễn Hãng ở Đại Đồng: Vạn cổ Đại Đồng Cao Sĩ truyện/Thiên thu Xuân Lũng cố gia phong”, đã gói ghém tất cả tâm trạng Nguyễn Hãng thời ông sống. Năm 1993, đền thờ Dật sĩ Nguyễn Hãng ở xóm Chùa đã được tái dựng.
Văn chỉ làng Dòng - nơi tôn vinh các danh tài đất Xuân Lũng còn giữ được rất nhiều những tư liệu quý báu về Nguyễn Hãng cũng như các danh nho xứ này. Chỉ tính riêng 3 tấm bia khoa bảng đặt ở khu vực Văn chỉ làng Dòng đã có tới 205 người đỗ đạt với đủ các thứ bậc cao, thấp.
Theo nghiên cứu của nhà văn Nguyễn Văn Toại: Khoảng những năm 20-30 của thế kỷ trước, trường Viễn Đông Bác cổ Pháp, EFEO, đã cho người lên Xuân Lũng kịp thời in dập lại 3 tấm bia ghi việc học (gồm 5 mặt) cùng một vài tấm bia hưng công khác và những thác bản quý giá này hiện vẫn còn được lưu giữ tại Viên nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
“Cái “tạng” của nhà nho Nguyễn Hãng có lẽ là “tạng phú”. Giá trị các bài phú của ông là ở sức sống lâu bền với thời gian. Bút pháp bài phú “Đại Đồng phong cảnh” nghiêng về hoành tráng. Trong lịch sử văn học nước ta, có lẽ bài phú của Nguyễn Hãng giữ kỷ lục nhuận bút cao nhất – tới 2000 lạng bạc”, nhà văn Nguyễn Văn Toại.