'Bức tranh' của Kim Lân: Lòng người mẹ nghèo thương con

Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Kim Lân là “nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống” (Nguyên Hồng). Mỗi truyện ngắn của ông như một mảng đời của nhà văn được “xắn ra” từ mảnh đất sống của kiếp người thấm đẫm mồ hôi, nước mắt, lời than thở... và cả những nụ cười nhiều lúc hồn nhiên, xúc động.

Câu văn vừa cho ta thấy tấm lòng bao dung của người mẹ, vừa chất chứa bao nhiêu nỗi niềm tâm trạng. Bằng tấm lòng bao dung nhân hậu và sự nhạy cảm của người phụ nữ, bà lão thấu hiểu ngay cảnh ngộ của người vợ nhặt và đặt người phụ nữ ấy cao hơn cả con trai của mình. Tâm trạng của bà cụ vừa có ai oán, tủi hờn, vừa như cố nén một nỗi niềm bất đắc dĩ trước việc đã rồi, vừa rưng rưng một niềm vui thầm kín tội nghiệp. Và bà đi đến quyết định vui lòng chấp nhận nàng dâu mới: “Ừ, thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”.

Câu nói của bà làm cho cuộc hôn nhân giữa tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau giữa đường giữa chợ nữa. Nó cũng bình đẳng đẹp đẽ như tất cả các cuộc hôn nhân mâm cao cỗ đầy xưa nay. Vì cuộc hôn nhân nào mà chẳng xuất phát từ duyên phận vợ chồng. Bà dặn dò các con bảo ban nhau làm ăn. Bà gieo hi vọng cho con cái “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá”. Bà an ủi con trai con dâu. Trên hết, ta vẫn thấy ở bà tấm lòng thương xót của người mẹ dành cho con và cho cả người đàn bà xa lạ vừa kịp trở thành người thân của mình.

Nhưng dù cố gắng, trĩu nặng trong suy nghĩ của người mẹ vẫn là nỗi lo lắng về tương lai của các con. Hình ảnh bà lão trong cái nhập nhoạng của bóng tối, hướng đôi mắt đăm đăm nhìn ra ngoài, nhìn suốt cuộc đời mình, cuộc đời của những người thân của mình để phấp phỏng cho hiện tại của con cái đầy ám ảnh với người đọc. Theo cái nhìn ấy là “bóng tối trùm lấy hai con mắt, là dòng sông sáng uốn khúc trong cánh đồng tối, là hình ảnh ông lão, đứa con gái út, những người thân yêu đã rời xa bà hẳn cũng vì đói khổ, là chính cuộc đời dằng dặc đau khổ của bà”. Bà đã đem vào cuộc đời con cái cái lo của biết bao kiếp người khác, để mà thương xót, nghẹn lời: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”...

Như vậy, trước sự việc con trai nhặt được vợ, tâm trạng của bà cụ Tứ có sự lẫn lộn giữa buồn, vui và lo lắng. Niềm vui thì héo hắt vì không sao thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buồn tủi xót thương. Và cũng như bao bà mẹ nhân từ khác, bà mong dâu con mình hoà thuận. Bà cụ nghẹn lời, nước mắt rưng, những giọt nước mắt lấp lánh trong lòng vị tha cao quý của sự xúc động, thương người và tủi thân mình. Đấy là giọt nước mắt kết tinh cho tình mẫu tử thiêng liêng.

3.

Không chỉ đôn hậu, vị tha với tấm lòng người mẹ đầy cao quý, bà cụ Tứ còn là người có niềm tin mãnh liệt, bất diệt vào tương lai. Sau buồn vui và lo lắng, ta bắt gặp niềm hy vọng mãnh liệt trong lòng bà cụ. Nó được nhen nhóm từ những chuyện tưởng chừng như hết sức vụn vặt, nhỏ nhoi. Đó là việc “bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa” trong buổi sáng hôm sau. Dường như bà tin rằng việc thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời có thể khác đi. Hành động đó biểu hiện một lối sống đầy tin tưởng, đầy lạc quan mà không hề tạm bợ.

Niềm hi vọng còn ánh lên trên khuôn mặt của bà lão “Khuôn mặt bủng beo, u ám của bà hôm nay nhẹ nhõm, tươi tỉnh rạng rỡ hẳn lên”. Đặc biệt, niềm hi vọng được gửi gắm trong câu chuyện của bà lão trong bữa cơm ngày đói đầu tiên với nàng dâu mới. Bà cụ vừa ăn, vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này “Tràng ạ, khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Bà là người già nhất nhưng lại nói nhiều nhất về những dự định tốt đẹp trong tương lai, không phải tương lai cho mình mà tương lai cho con cháu của mình “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Niềm lạc quan ấy là biểu hiện cho một tâm hồn khoẻ khoắn, không bao giờ gục ngã trước hoàn cảnh. Niềm tin, niềm hy vọng ấy là động lực giúp con người đi qua đói nghèo và tăm tối.

Và cuối cùng, người đọc rớt nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão lễ mễ bưng một nồi cháo cám nghi ngút khói lên nhà, đon đả tươi cười mà bảo: “Chè đây, chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Bữa cơm ngày đói thảm hại nhưng bà vẫn tươi cười. Bà đã biến buồn thành vui để đỡ phần thê thảm. Bà đã nén nỗi buồn riêng của mình để động viên con. Đó là biểu hiện của một tấm tình mẫu tử đầy cao cả. Bà đã biết chắt chiu hi vọng từ trong hoàn cảnh khốn cùng và tuyệt vọng. Với bà cụ Tứ, bà đã tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con, trong việc nhen nhóm niềm vui, niềm hi vọng vào tương lai. Đó cũng chính là niềm tin sâu sắc của Kim Lân vào phẩm chất tốt đẹp của con người.

Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào một tình huống hoàn toàn bất ngờ trước sự kiện con trai nhặt được vợ trong những ngày đói khát, Kim Lân đã miêu tả tài tình, tinh tế những diễn biến tâm lí, những sắc thái tâm trạng của bà cụ Tứ và diễn tả nó bằng một giọng văn đôn hậu, giàu yêu thương và trân trọng. Thành công của thiên truyện là đã dựng lên hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khó trong trận đói khủng khiếp năm 1945, một người mẹ nhân hậu, vị tha và có khát vọng đổi đời mãnh liệt và khôn nguôi khát vọng hạnh phúc cho gia đình, con cái.

Phần cuối thiên truyện là hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới để mở ra lối thoát cho những người nghèo khổ. Niềm hi vọng của ba con người Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt là có cơ sở. Chắc chắn rằng, trong sự cưu mang, đùm bọc, nương tựa vào nhau, họ sẽ vượt qua cảnh ngộ tối tăm ấy. Đó chính là chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Kim Lân.

Viết về tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào, nhà văn muốn khẳng định một thông điệp: Dù trên bờ vực của cái chết con người vẫn cưu mang, đùm bọc lấy nhau, vẫn khao khát hạnh phúc bình dị đời thường. Niềm khao khát ấy được thể hiện rõ nét nhất ở nhân vật bà cụ Tứ. Đúng như Kim Lân chia sẻ: “Khi viết về cái đói, mọi người thường có ý nghĩ là khi đói người ta khổ cực và chỉ muốn chết. Tôi định viết một số truyện ngắn nhưng với ý khác là khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống.

Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống, vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra con người. Lúc đói, người ta phải kiếm sống, thậm chí nhặt rác rưởi, nhặt ốc, nhặt chuột, ăn uống một cách thê thảm nhưng đến tối họ vẫn có một gia đình, gia đình nào về gia đình ấy, vẫn hi vọng một điều gì. Họ vẫn trò chuyện về đồng áng, giỗ chạp, những chuyện hướng về một cái gì là sự sống, đói nhưng không làm cho người ta đen tối, mất hi vọng dù phải cướp cám mà ăn”.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/buc-tranh-cua-kim-lan-long-nguoi-me-ngheo-thuong-con-post603589.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/buc-tranh-cua-kim-lan-long-nguoi-me-ngheo-thuong-con-post603589.html
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
'Bức tranh' của Kim Lân: Lòng người mẹ nghèo thương con