Toàn di chỉ có diện tích khoảng 15.000m2. Tháng 9/1999, Viện Khảo cổ học và Bảo tàng tỉnh phối hợp khai quật di chỉ Lung Leng lần 1 với diện tích 106m2, qua đó phát hiện, thu thập được hàng trăm di vật đá, hàng vạn mảnh gốm các loại.
Cuộc khai quật lần 2 kéo dài từ tháng 6 - 8/2001 với diện tích 11.500m2. Đây là một trong những cuộc khai quật khảo cổ học lớn nhất nước ta thời điểm bấy giờ. Từ cuộc khảo cổ đã phát hiện và xử lý 20 di tích là các bếp lửa, lò nung; 120 mộ táng; hơn 14.500 hiện vật đá là công cụ lao động sản xuất, gồm: Rìu, bôn, cuốc, dao, bàn mài, bàn nghiền, khuôn đúc đồng… Đồng thời, các nhà khảo cổ còn phát hiện những món đồ trang sức, như: Vòng tay, vòng đeo tai, chuỗi hạt đeo cổ... cùng hàng trăm hiện vật gốm và hàng triệu mảnh gốm các loại.
Theo ông Quang, Lung Leng là một di chỉ có quy mô lớn, tầng văn hóa dày với số lượng di vật phong phú, phản ánh các giai đoạn phát triển cơ bản của lịch sử. Lung Leng không chỉ là một di tích cư trú, mà còn là nơi chế tác công cụ, sản xuất đồ gốm, đồng thời còn là di chỉ mộ táng.
Những cổ vật ở Lung Leng được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Kon Tum. |
Ở làng Lung Leng mỗi gia đình đều gìn giữ một số cổ vật bằng đá để nhớ về ông cha của hàng nghìn năm trước. |
Năm 2002, thủy điện Ya Ly được hoàn thành và bắt đầu tích nước. Nước lòng hồ Ya Ly dâng lên phủ kín cả khu vực, ôm vào lòng những dấu tích của tiền nhân. Khu vực di chỉ Lung Leng nằm trong vùng bán ngập, 6 tháng ngập sâu dưới lòng hồ thủy điện Ya Ly, 6 tháng nước rút thì cây mai dương phủ kín.
Ngày nào cũng vậy, mỗi khi dắt đàn bò đi ngang vùng di chỉ, ông A Mít (54 tuổi), lại chỉ cho những đứa trẻ trong làng nơi phát hiện dấu tích của cha ông. Ông A Mít sợ rằng, nếu không truyền cho con cháu, rồi một mai cái di chỉ ngày nào sẽ lại chìm vào quên lãng.
“Nhiều đoàn khách đến đây, từng muốn tham quan di chỉ, nhưng vào mùa ngập thì chịu, chỉ thấy mênh mông nước. Còn 6 tháng mùa cạn thì cây mai dương mọc thành rừng phủ kín chẳng ai len vào nổi”, ông Mít nói.
Để lưu giữ dấu tích của cha ông, mỗi gia đình trong làng đều giữ lại vài chiếc rìu, bôn bằng đá và xem đó là một niềm tự hào về lịch sử phát triển lâu đời của dân tộc. Ở phía lòng hồ, di chỉ Lung Leng lặng lẽ trong tiếng rì rào của sông nước như hàng vạn năm qua.
PGS.TS Nguyễn Khắc Sử, nguyên Trưởng phòng Thời đại đồ đá (Viện Khảo cổ học Việt Nam) cho biết, di tích Lung Leng được phát hiện năm 1999 và được khai quật di dời toàn bộ ra khỏi vùng lòng hồ thủy điện Ya Ly vào năm 2001. Ngoài di chỉ này, còn phát hiện mới 65 di tích khảo cổ tiền sử ở Kon Tum, trong đó 9 di tích vùng lòng hồ thủy điện Plei Krông đã được khai quật.
Theo PGS.TS Nguyễn Khắc Sử, với những tư liệu mới chúng ta cần thay đổi cách nhìn về vùng đất Tây Nguyên miền Thượng. Tây Nguyên, nhất là vùng đất giao hội giữa các sông lớn thường sớm có sự khai phá của con người. Trong diễn trình lịch sử, đây là vùng đất năng động, sáng tạo và có mối giao lưu rộng mở với xung quanh.
Trên những nét cơ bản, các di tích khảo cổ tiền sơ sử ở tỉnh Kon Tum đã phản ánh sự phát triển tiếp nối từ hậu kỳ đá cũ, qua đá mới đến đỉnh cao là văn hóa Lung Leng - văn hóa hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí.
Văn hóa Lung Leng là nền tảng, là tiền đề cho phép cư dân ở đây mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến nhất lúc bấy giờ. Nhờ giao lưu, cư dân Lung Leng đã nắm được kỹ thuật luyện kim, đúc đồng, chế tạo rìu đồng lưỡi lệch bằng khuôn hai mang, kiểu rìu đồng Đông Sơn muộn.
Cũng nhờ giao lưu kỹ thuật mà trình độ luyện sắt và chế tạo công cụ sắt ở Lung Leng đã đạt đỉnh cao, trao đổi được với cư dân vùng Thượng Lào và văn hóa Sa Huỳnh ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Những sản phẩm đồ sắt của người Lung Leng có thể được buôn bán trên vùng biển Thái Bình Dương.
Những chiếc bôn hình răng trâu bằng đá phtanite, chiếc rìu có vai bằng đá opal trong văn hóa Lung Leng được người tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh ưa chuộng. Táng thức mộ quan tài gốm, như: Mộ chum, mộ nồi, mộ vò và nồi - vò úp nhau, vốn phổ biến trong văn hóa Sa Huỳnh cũng có mặt trong văn hóa Lung Leng.
Giao lưu, hội nhập với bên ngoài, nhưng cư dân văn hóa Lung Leng vẫn bảo lưu nét văn hóa riêng, độc đáo của mình. Người ta có thể tìm thấy ở đây sự hiện diện của tổ hợp công cụ cuốc, rìu, bôn bằng đá lửa, những mũi nhọn được ghè lại từ lưỡi rìu, bôn đã qua sử dụng; những viên cuội tròn dẹt hình bánh xe có lỗ giữa, những bàn mài bằng đá granit và những chiếc rìu đồng lưỡi lệch cùng các khuôn đúc chúng mang “thương hiệu” Lung Leng.
“Tây Nguyên đến nay vẫn là vùng đất hấp dẫn của nhiều lĩnh vực khoa học, nhất là khảo cổ học. Chúng tôi hy vọng rằng, trong lòng đất Tây Nguyên sẽ còn khám phá được nhiều tư liệu mới, từ đó bổ sung nhiều tư liệu mới cho văn hóa Lung Leng, làm cho bức tranh văn hóa tiền sử Tây Nguyên rõ ràng hơn, rực rỡ hơn trong giai đoạn mở cửa và hội nhập, góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững của Tây Nguyên”, PGS.TS Nguyễn Khắc Sử chia sẻ.