Thứ hai là tiến sĩ Nguyễn Khánh Dung đời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Quốc Tử giám Tế tửu. Sau đến Ngô Tuấn Dị đời Lê Hy Tông, làm quan Hàn lâm viện Hiệu thảo. Tiến sĩ thứ tư là Ngô Vi Thực làm quan Lễ khoa Cấp sự trung, sau được cử đi đốc chiến ở Cao Bằng, tử trận.
Tiếp đến là Ngô Vi Nho làm quan Giám sát Ngự sử. Rồi Ngô Đình Thạc làm Phó sứ sang nhà Thanh, sau phong Thượng thư bộ Binh, tước Quận công. Khoảng năm 1739 ông giữ chức Tham tụng kiêm Thượng thư bộ Hộ, đặc phái lên trấn thủ Lạng Sơn, không may bị sa vào tay giặc, như sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ghi: “Đình Thạc giữ tiết tháo, không chịu khuất phục, để chết”.
Tiếp nữa là Ngô Đình Chất, trải nhiều bước thăng trầm rồi cũng làm tới Thượng thư bộ Binh. Tiến sĩ thứ tám là Nguyễn Tông Trình, hiệu Song Ngạc, nổi tiếng văn hay và đức độ.
Ngô Thì Sĩ đỗ đầu khoa chọn người giỏi, được chọn làm tuỳ giảng cho Thế tử Trịnh Sâm. Sau này đỗ Hoàng giáp làm Đốc trấn Lạng Sơn. Ông chính là người cho dời thành Lạng Sơn lên núi Lộc Mã, mở mang động Nhị Thanh trở thành một thắng tích nổi tiếng.
Con trai ông là tiến sĩ Ngô Thì Nhậm làm thầy dạy Trịnh Khải. Đến năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, Ngô Thì Nhậm theo Tây Sơn, được Nguyễn Huệ xếp cùng Ngô Văn Sở cai quản Bắc Hà. Sau Thì Nhậm có Nguyễn Nha và Ngô Điền đỗ tiến sĩ, làm quan to và để lại nhiều trước tác văn chương cho hậu thế.
Họ Ngô một bồ tiến sĩ
Ngô Trân - cụ nội của Ngô Thì Nhậm từng được coi là một trong “Trường An thất hổ” bởi sức học uyên thâm cùng tài văn chương, đã dạy Ngô Thì Nhậm từ thuở còn để chỏm. Ngô Thì Ức - ông nội Thì Nhậm là người hay chữ, 14 tuổi đã đỗ thứ hai kỳ thi hương.
Cha ông là Ngô Thì Sĩ, ngoài việc được cụ Ngô Trân kèm cặp, còn được cho đi theo học những bậc danh gia ở Thăng Long và cuối cùng đã đỗ tiến sĩ, làm quan lớn, văn chương nổi danh khắp vùng Bắc Hà.
Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, Ngô Thì Nhậm trong tính cách và học vấn đã thừa kế được những tinh túy học thuật. Ngay từ nhỏ, Thì Nhậm đã được coi là thần đồng. Hơn chục tuổi đã thông làu kinh truyện; 16 tuổi viết được cả một bộ sách nhan đề “Nhị thập thất sử toát yếu”; 21 tuổi soạn xong “Tứ gia tuyết phả”.
Tên cúng cơm của Ngô Thì Nhậm là Phó. Khi đi thi, người cha vấn vương mãi không biết đặt tên con mình là gì cho hợp. Cậu bé Phó mới bảo cha: “Cho con thêm trên đầu chữ Sĩ của cha một dấu phẩy thành chữ Nhậm”. Cụ Sĩ vui mừng, gật gù: “Rồi con sẽ hơn cha một cái đầu”. Quả thật, sau này khi làm quan triều Lê, Thì Nhậm được vua khen là “Tuấn mã ngàn dặm”.
Ngô Thì Nhậm sớm đỗ đạt, tài năng trổi vượt, được chọn làm người dạy học Thế tử Trịnh Cán. Sau vụ án năm Canh Tý (1780), Thì Nhậm bị nghi là người tố giác Trịnh Khải nên phải lánh nạn. Khi theo Nguyễn Huệ, Thì Nhậm bày nhiều kế hay nên được cùng tướng Ngô Văn Sở cai quản Bắc Hà.
Cuối năm Mậu Thân (1788), Lê Chiêu Thống cầu viện rước 29 vạn quân Thanh tràn đánh Bắc Hà. Thế giặc như lũ cuốn, Ngô Thì Nhậm đề ra kế sách rút quân về Tam Điệp. Nhờ kế ấy mà Nguyễn Huệ còn đủ binh lực, thần tốc đánh bại 29 vạn quân Thanh, giải phóng Thăng Long.
Chí khí của người anh hùng còn được thể hiện ngay cả khi lâm nạn. Đặng Trần Thường từng đến xin Nhậm tiến cử nhưng vì khúm núm, nên Thì Nhậm đuổi đi. Thường hổ thẹn, vào Nam theo phò Nguyễn Phúc Ánh. Khi Gia Long phục triều thì các võ tướng văn quan của Tây Sơn bị xử đánh roi ở Văn Miếu. Chủ trì cuộc phạt là Đặng Trần Thường.
Để rửa hận, Thường kiêu hãnh ra vế đối: “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai”. Ngô Thì Nhậm đáp: “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”.
Đặng Trần Thường bắt Ngô Thì Nhậm phải sửa lại “thế đành theo thế”. Thì Nhậm không nói lại, Thường sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông. Sau trận đòn ấy, biết mình không qua khỏi, Thì Nhậm làm bài thơ gửi Đặng Trần Thường: Ai tai Đặng Trần Thường/Chân như yến xử đường/Vị Ương cung cố sự/Diệc nhĩ thị thu trường.
Quả như tiên đoán, khi đang ở đỉnh cao thì Thường bị sa cơ bởi lời xúc xiểm và bị chính chủ nhân của mình – vua Gia Long kết tội xử giảo năm 1816.