Với nhiều quốc gia, văn hoá ẩm thực không chỉ là nguyên liệu, cách chế biến. Kiểu ăn và cách ăn lại chính là những mấu chốt để làm nên bản sắc văn hoá. Có nơi dùng tay bốc, có nơi dùng đũa, có nơi dùng dĩa… Có nơi ngồi xổm, có nơi ngồi bàn, lại có nơi xếp bằng.
Bởi vậy, văn hóa ẩm thực được thế giới định nghĩa bao gồm toàn bộ môi trường văn hóa dinh dưỡng của con người. Kể cả cách trang trí và cách thức ăn uống, nghi thức và nghi lễ trước – trong – sau khi ăn.
Trở lại với đề án xây dựng và phát triển văn hóa ẩm thực Việt Nam thành thương hiệu quốc gia. Phải khẳng định đó là điều cần thiết, dù được tiến hành tương đối muộn. Việt Nam được coi là quốc gia có nền văn hoá ẩm thực phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, người nước ngoài đến Việt Nam đa số mới chỉ biết đến phở.
Có được món ăn mang tinh thần và hồn cốt dân tộc đã khó, quảng bá món ăn ấy để bạn bè thế giới đều biết đến một cách rộng rãi càng khó hơn. Việt Nam từng nhận đến 5 kỷ lục thế giới trong lĩnh vực ẩm thực, gồm: Sở hữu nhiều món sợi và nước, nhiều món mắm và các món ăn chế biến từ mắm, nhiều món ăn được chế biến từ nhiều loài hoa, nhiều món cuốn đặc sắc, nhiều món bánh làm từ bột gạo.
Tuy nhiên, những cái nhất ấy gần như là “hữu danh vô thực” – khi chúng ta nhận kỷ lục rồi để đấy, chẳng ai biết tới.
Quảng bá văn hoá ẩm thực, là phải để người khác biết tới cả câu chuyện gốc rễ về món ăn. Làm sao để người ta phải khát khao được nếm thử, hoặc chí ít cũng phải nhận diện được nét văn hoá Việt thông qua hình thức món ăn ấy.