Lưu ý: Để ghi nhớ một cách dễ dàng, người ta thường lấy giờ chính Tý là 0h, giờ chính Ngọ là 12h. Từ đó, suy ra các giờ còn lại.
Ngoài ra, một giờ còn được chia thành đầu giờ – giữa giờ – cuối giờ. Chính vì vậy, khi gọi thời gian theo 12 con giáp người xưa thường lấy giờ ở giữa. Chẳng hạn như: Thân là 16h và Tuất là 20h…
![]() |
Ngoài cách tính giờ trong ngày theo 12 con giáp, người xưa còn tính giờ vào ban đêm theo đơn vị canh, mỗi canh bằng 2 tiếng.
Canh được dùng để gọi thời gian ban đêm, đêm dài 10 tiếng, tính từ 19h tối ngày hôm trước cho đến 5h sáng ngày hôm sau, cụ thể như sau:
Tên canh | Thời gian quy ước |
Canh 1 | Từ 19 giờ đến 21 giờ, tức giờ Tuất |
Canh 2 | Từ 21 giờ đến 23 giờ, tức giờ Hợi |
Canh 3 | Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng hôm sau, tức giờ Tý |
Canh 4 | Từ 1 giờ đến 3 giờ, tức giờ Sửu |
Canh 5 | Từ 3 giờ đến 5 giờ, tức giờ Dần |
Nếu canh là đơn vị tính giờ ban đêm thì khắc được dùng để gọi thời gian ban ngày. Ngày dài 14 tiếng, được chia thành 6 khắc, cụ thể như sau:
Tên khắc | Thời gian quy ước |
Khắc 1 | Từ 5 giờ đến 7 giờ 20 phút sáng |
Khắc 2 | Từ 7 giờ 20 phút sáng đến 9 giờ 40 phút sáng |
Khắc 3 | Từ 9 giờ 40 phút sáng đến 12 giờ trưa |
Khắc 4 | Từ 12 giờ trưa dến 14 giờ 20 phút xế chiều |
Khắc 5 | Từ 14 giờ 20 phút xế chiều đến 16 giờ 40 phút chiều |
Khắc 6 | Từ 16 giờ 40 phút chiều đến 19 giờ tối |