Đĩa bay đầu tiên mang tên Avrocar được sản xuất tháng 5/1959. Trong 4 tháng thử nghiệm, có các trục trặc xảy ra.
Khí nóng từ ống xả được bay ngược vào cửa hút khi bay, làm giảm lực đẩy động cơ. Ngoài ra, động cơ tạo ra lực nâng từ một khu vực nhỏ trên bề mặt và làm giảm lực đẩy tổng thể. Lực nâng mà động cơ đĩa bay tạo ra chỉ đạt 1,4 tấn, nhỏ hơn trọng lượng rỗng gần 2 tấn của đĩa bay.
Phi công đứng trên đĩa bay trong quá trình thử nghiệm.
Kết quả là đĩa bay chỉ bay cách mặt đất được 1 mét trong thử nghiệm. Đối với nguyên mẫu thứ 2, các sửa đổi giúp động cơ tạo lực nâng mạnh hơn, nhưng đĩa bay liên tục rung lắc mất ổn định buộc phi công phải tắt động cơ.
Trong quá trình thử nghiệm, các kĩ sư nhận ra hạn chế về công nghệ ở thời điểm đó và thiết kế có vấn đề là nguyên nhân dĩa bay liên tục gặp trục trặc. Nhưng dự án vẫn được tiếp tục cho đến năm 1961.
Đĩa bay có thể lơ lửng trên mặt đất và đạt tốc độ lên tới 190 km/giờ.
Một trong những nguyên mẫu cuối cùng được sản xuất có thể bay lơ lửng trên mặt đất với tốc độ lên tới 190 km/giờ. Đến tháng 12/1961, quân đội Mỹ thông báo hủy bỏ dự án vì hết nguồn tiền tài trợ mà không có ngân sách cấp mới.
Nhưng các thành quả nghiên cứu của dự án là cơ sở để Mỹ phát triển các mẫu máy bay cất cánh thẳng đứng sau này như tiêm kích AV-8B Harrier II, máy bay vận tải V-22 Osprey và tiêm kích tàng hình F-35B.
Đối với tiêm kích F-35B, các kĩ sư lắp thêm quạt giúp tăng lực nâng. Đây là thiết kế thừa hưởng từ việc phát triển đĩa bay Avrocar.