Nhà văn cũng sử dụng hàng loạt động từ vồ, nghiến, cắn, nhai để diễn tả tột cùng lòng căm tức những cổ tục lạc hậu đã khiến người mẹ tội nghiệp chịu nhiều đau khổ, mất mát. Như vậy, mọi ý đồ, ý muốn của bà cô hoàn toàn thất bại. Sau cuộc trò chuyện, dường như Hồng càng yêu thương, kính trọng và cảm thông với mẹ hơn. Tình mẫu tử là một tình cảm bất diệt không ai có thể chia cắt được.
Không chỉ vậy, tình yêu thương mẹ còn được thể hiện qua tình huống truyện thứ hai trong đoạn trích. Đó là niềm hạnh phúc vô bờ khi được trở về trong lòng mẹ. Ngay lúc đứa trẻ tội nghiệp ấy đau khổ, lòng mong mỏi, khát khao được gặp mẹ bùng lên hơn bao giờ hết người mẹ ấy đã trở về sau một buổi tan học. Chỉ nhìn thấy một vạt áo từ đằng sau của bóng người ngồi trên xe kéo, linh cảm của đứa trẻ khát khao tình mẫu tử đã mách bảo với Hồng đó chính là mẹ.
Cậu bé vừa hồi hộp, vừa lo âu, vừa sung sướng, vừa hy vọng, vừa nơm nớp tuyệt vọng. Cậu chạy rất nhanh, thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, cất tiếng gọi bối rối “Mợ ơi! Mợ ơi! Mợ ơi!”.
Những tiếng gọi ấy bật ra từ lòng khát khao bấy lâu nay dồn nén lại. Đó là sự thổn thức của trái tim trẻ thơ bật thành tiếng gọi. Ở đây, nhà văn tiếp tục sử dụng biện pháp so sánh: “Và cái lần đó không những làm tôi thẹn mà còn tủi cực nữa, chẳng khác gì cái ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc”.
Đây là so sánh giả định: “cái nhầm lẫn” của nhân vật tôi về người ngồi trên xe kéo với “ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc”.
Chú bé Hồng là “người bộ hành ngã gục giữa sa mạc” kiệt sức, mất hết hy vọng, đã bị dồn đẩy vào bước đường cùng, còn “ảo ảnh của một dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm” là người ngồi trên xe kéo, là người mẹ, là người tiếp thêm sự sống, niềm hạnh phúc vô bờ, mang đến hy vọng về tương lai cho bé Hồng.
Quả thật, nếu người ấy không phải là mẹ, đó là sự sụp đổ hoàn toàn, là nỗi đau quá sức chịu đựng bởi vì với mỗi đứa trẻ người mẹ chính là cội nguồn của sự sống và tình yêu thương, là dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm mà mỗi đứa con chính là người bộ hành sắp ngã gục giữa sa mạc cạn khô tình người.
Rõ ràng, chỉ bằng một vài dòng văn người đọc có thể cảm nhận được rõ hơn về cảnh ngộ, về tâm trạng, tâm hồn của nhân vật chính. Hồng là chú bé bất hạnh, tội nghiệp nhưng có một trái tim tràn đầy tình yêu thương, niềm tin lớn lao với người mẹ đã chịu nhiều đau đớn.
Trong trái tim của em luôn khát khao tình mẫu tử, luôn chứa chan hy vọng được gặp lại mẹ. Giờ đây “dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm” không còn là ảo ảnh mà đó là cảm giác hiện hữu mà người bộ hành sắp ngã gục giữa sa mạc đã được đáp đền.
Mẹ đã trở về, mẹ ngồi trên xe kéo, “xe đã chạy chầm chậm”. Hồng đã tận mắt nhìn thấy mẹ: Mẹ không còm cõi xơ xác, gương mặt mẹ tươi sáng, nước da mịn, gò má hồng. Một người mẹ đẹp đẽ, xinh tươi, vẹn nguyên nét xuân sắc như trong ý nghĩ của em.
Khi mẹ con đã gần đến độ: Đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngã vào cánh tay mẹ tôi: Hơi quần áo mẹ tôi và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường. Để diễn tả chân thực và rõ nét những cảm xúc này, tác giả dùng nhiều động từ, tính từ đặc biệt là danh từ cùng trường nghĩa: Gương mặt, đôi mắt, nước da, gò má, đùi, đầu, cánh tay, da thịt, khuôn miệng… để miêu tả vô cùng sinh động niềm hạnh phúc lớn lao tưởng chừng lên tới đỉnh điểm của tình mẫu tử. Đây thực sự là cảm giác mơn man, ngây ngất, đắm say mà vô cùng dịu êm của quan hệ máu mủ, ruột thịt mà những đứa trẻ bất hạnh không dễ gì có được.
Nhà văn đã dựng lại một bức tranh tràn ngập ánh sáng, đường nét rõ ràng, hài hòa, trong đó có những sắc màu tươi tắn, thoang thoảng hương thơm. Đó là hình ảnh về một thế giới đang bừng nở, hồi sinh, một thế giới dịu dàng kỷ niệm, ăm ắp tình mẫu tử.
Sống trong thế giới ấy, chú bé Hồng bồng bềnh trôi trong cảm giác sung sướng, rạo rực, ru mình trong tình mẹ dịu êm, tự hào hãnh diện được đền đáp bởi đứa con hiếu thảo, yêu thương, tin yêu mẹ đến cháy lòng. Lúc đó Hồng có cảm giác mình đang bé lại để làm nũng mẹ, được mẹ vuốt ve, được mẹ chiều chuộng…
Tình mẹ như một liều thuốc thần tiên và kỳ diệu làm sống lại tất cả những cảm giác ngọt ngào nhất tưởng như dã mất đi. Tình mẹ chữa lành mọi vết thương lòng. Mọi điều xấu xa, sai lệch mà bà cô gieo vào đầu óc Hồng đã tan biến hết.
Chỉ còn lại là niềm hạnh phúc giản dị mà thiêng liêng, hiện thực mà đầy lãng mạn, mơ mộng. Đây là bài ca bất diệt về tình mẫu tử thiêng liêng, sâu nặng. Càng về cuối đoạn trích, ngôn ngữ văn chương càng linh hoạt, sống động, tình cảm người viết càng dạt dào.
Đúng là nhà văn đang sống lại những kỷ niệm tuổi thơ để tâm tình, chia sẻ với bạn đọc, cùng bạn đọc thấm thía những vui buồn, đắng cay, ngọt ngào của lòng mẹ yêu con, của lòng con tin mẹ.
Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa nhân đạo thống thiết đã được thể hiện trọn vẹn qua một đoạn trích ngắn gọn trong một tác phẩm viết về tình mẫu tử - một tình cảm thiêng liêng, nhân bản nhất của con người. Tình cảm ấy như một lẽ tự nhiên đi vào văn Nguyên Hồng và trở thành suối nguồn không bao giờ vơi cạn bằng cá tính sáng tạo của mình, bằng tấm lòng của mình.
Để chuyển tải tình cảm nặng sâu ấy đoạn văn có sự kết hợp nhuần nhuyễn của các phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả, biểu cảm và bình luận. Đó là giọng văn thiết tha, sôi nổi nhiều lúc trầm lắng, suy tư nhưng tất cả đều dạt dào cảm xúc, ngôn ngữ giàu chất trữ tình tinh tế, chọn lọc, diễn tả được tận cùng mọi cảm xúc… Ngôi kể thứ nhất diễn tả rõ nét tinh tế tâm lý nhân vật – một chú bé bất hạnh trong hoàn cảnh éo le.
Với Nguyên Hồng cuộc sống có thể được bắt đầu bằng việc yêu thương gương mặt hiền hòa của mẹ. Chính tình mẹ và chủ nghĩa nhân đạo thống thiết đã giúp nhà văn Nguyên Hồng sống một cuộc đời thật ý nghĩa và lan tỏa những điều tốt đẹp đến tất cả mỗi chúng ta.