Di sản quán Đạo giáo: Nhận diện đúng, quản lý chuẩn

Trần Hòa 13/08/2025 16:08

Các quán Đạo giáo không đơn thuần là nơi thờ tự, mà còn là những biểu hiện của dòng chảy tư tưởng, phản ánh sự “hỗn dung tôn giáo” - một nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam.

Đền Quán Thánh nguyên là một đạo quán của Đạo giáo với tên gọi “Trấn Vũ quán”.
Đền Quán Thánh nguyên là một đạo quán của Đạo giáo với tên gọi “Trấn Vũ quán”.

Khi các thiết chế tôn giáo quen thuộc như đình, chùa, đền, miếu đã khẳng định vị thế vững chắc trong nhận thức cộng đồng và chính sách bảo tồn di sản, thì quán Đạo giáo là một loại hình di tích gắn liền với sự du nhập và bản địa hóa của Đạo giáo ở Việt Nam, lại đang dần rơi vào quên lãng.

Một thời hưng thịnh

Theo các nguồn sử liệu, Đạo giáo du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa; đồng thời có sự giao thoa, dung hợp với Phật giáo, Nho giáo và các tín ngưỡng bản địa, hình thành quan niệm thờ thần linh, nghi lễ cúng bái, và cả các hình thức chữa bệnh, bùa chú.

Theo TS Nguyễn Thế Hùng - tác giả cuốn sách “Quán Đạo giáo với một số vấn đề lịch sử và tôn giáo ở Việt Nam”, từ cuối thế kỉ thứ 2, người phương Bắc chạy sang Giao Châu lánh nạn rất đông, phần nhiều là các đạo sĩ luyện phép trường sinh. Nhiều quan lại Trung Hoa sang cai trị đều sính phương thuật, điển hình là Cao Biền.

Sau thời gian dài du nhập vào Việt Nam, các đạo sĩ từng được nhà nước phong kiến hết sức coi trọng chẳng kém gì tăng sư. Lịch sử cho thấy các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê đều chọn cả tăng sư lẫn đạo sĩ vào triều làm cố vấn; bên cạnh tăng quan, có cả chức đạo quan.

Ngày nay tại Hà Nội vẫn còn nhiều di tích quán Đạo giáo - từng là nơi thờ cúng, luyện linh đơn của các đạo sĩ thời xưa, như: Đền Ngọc Sơn thờ Văn Xương Đế quân và Lã Động Tân, đền Cự Linh, đền Quán Thánh, chùa Đa Sĩ (Lâm Dương quán), chùa Linh Tiên (Linh Tiên quán)…

Tiêu biểu trong số các di tích ấy là quán Linh Tiên tại làng Cao Thượng, nay thuộc xã Hoài Đức. Tương truyền, Linh Tiên quán có từ khoảng những năm 111 TCN, gắn với nhân vật Lữ Gia - Tể tướng nước Nam Việt.

Hiện nay, trong quán có treo một biển gỗ viết bằng chữ Hán và được giải thích là chép từ bia đá trước đây, trong đó có đoạn viết, được dịch là: “Vào thời Triệu Nam đế có ông Lữ Gia, đi chơi đến làng này, thấy tiên đang đánh cờ liền quỳ xuống bái lạy, người tiên nhân thấy thế bay lên trời. Nhân chuyện này, Lữ Gia cho lập Linh Tiên quán, quán về tiên linh thiêng”.

Trải qua thời gian, Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo hình thành thế chân vạc - gọi chung là Tam giáo. Trong đó, đạo Phật mạnh nhất và được nhiều người theo nên dần dần quán Linh Tiên không chỉ thờ Lão Tử và các vị thần tiên mà còn thờ Phật. Thời Lê sơ, vùng Hoài Đức trở thành một trung tâm của Đạo giáo, Linh Tiên quán từng là nơi khắc ván in kinh sách, thu hút nhiều đạo sĩ và môn đệ. Đến cuối thời Lê trung hưng, Đạo giáo suy yếu, nhiều quán không còn ai đến tu luyện và dần dần chuyển thành chùa.

Ngoài Linh Tiên quán thì Dương Lâm quán (nay gọi là chùa Đa Sĩ) thuộc phường Kiến Hưng cũng là một trong những quán Đạo giáo nổi tiếng, từng là nơi các đạo sĩ tu tập và luyện linh đan theo quan niệm trường sinh. Đây cũng là nơi thờ nhà khoa bảng - danh y Hoàng Đôn Hòa - Thị nội Thái y viện triều Lê, được phong tước Lương Dược hầu.

Không chỉ biến đổi từ quán thành chùa, quán Đạo giáo còn được chuyển tiếp thành đền - tiêu biểu nhất là đền Quán Thánh (Trấn Vũ quán). Là một trong bốn ngôi đền thuộc Thăng Long tứ trấn, biểu tượng văn hóa tâm linh đặc sắc của kinh thành Thăng Long, Trấn Vũ quán được xây dựng dưới thời vua Lý Thái Tổ, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ - một trong 4 vị thần trấn giữ cửa ngõ kinh thành Thăng Long xưa.

Theo tư liệu tại đền, dưới thời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Tạc giao cho con là Trịnh Căn chủ trì xuất kho di tạo Trấn Vũ quán cùng pho tượng Thánh Trấn Vũ. Lúc bấy giờ, nghệ nhân Vũ Công Chấn cho đúc tượng Huyền Thiên Trấn Vũ bằng đồng hun để thay cho pho tượng bằng gỗ trước đó. Đây là một trong những tượng đồng lớn nhất Thăng Long, thể hiện nghệ thuật điêu khắc tinh xảo và phong cách cương nhu đặc trưng của Đạo giáo.

di-san-quan-dao-giao-1.jpg
Tượng thờ Huyền Thiên Trấn Vũ tại đền Quán Thánh - một vị thần trong quan niệm tín ngưỡng Đạo giáo Việt Nam.

Biến đổi từ quán thành chùa

Theo TS Nguyễn Thế Hùng, trong hệ thống thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt, những công trình như đình, chùa, đền, miếu đã được nghiên cứu sâu rộng và trở thành biểu tượng quen thuộc trong tâm thức cộng đồng. Tuy nhiên, các quán Đạo giáo lại là mảng màu còn thiếu trong bức tranh toàn cảnh, để lại khoảng trống học thuật và nhận thức xã hội về loại hình di tích tôn giáo đặc biệt này.

Sau nhiều năm nghiên cứu, điền dã thực địa tại các vùng đất phía Tây Hà Nội (xưa thuộc xứ Đoài), TS Nguyễn Thế Hùng cho rằng, sự tồn tại của những ngôi quán Đạo giáo ở nhiều nơi chứng tỏ thiết chế tôn giáo này từng giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt.

Đây không chỉ là nơi thờ phụng các vị thần như Tam Thanh, Ngọc Hoàng, Huyền Thiên Trấn Vũ, mà còn là nơi thể hiện sự kết tinh, hòa quyện giữa Đạo giáo với tín ngưỡng dân gian Việt Nam và các tôn giáo lớn khác như Nho giáo, Phật giáo.

Chính nhờ sự hòa trộn ấy mà Đạo giáo không tồn tại như một tôn giáo ngoại lai thuần túy, mà sớm được bản địa hóa, hội nhập và lan tỏa mạnh mẽ vào đời sống tinh thần người Việt.

Một trong những phát hiện đáng chú ý là sự biến đổi trong kiến trúc quán Đạo giáo theo thời gian. Nếu như thế kỷ 16, mặt bằng quán thường theo hình chữ “Tam” thì đến thế kỷ 17, mô hình kiến trúc chuyển sang chữ “Công” - biểu trưng cho sự vững chắc, cân đối và hướng nội. Bên cạnh đó, hệ thống hậu đường và gác chuông có đặc điểm nổi bật của quán Đạo giáo được xem là “cầu nối chuyển tiếp” sang lối kiến trúc tiền Phật - hậu Thánh phổ biến ở nhiều di tích sau này.

di-san-quan-dao-giao-3.jpg
Linh Tiên quán thuộc xã Hoài Đức (Hà Nội) là một đạo quán nổi tiếng lâu đời.

TS Nguyễn Thế Hùng phân loại hệ thống tượng pháp thờ trong quán Đạo giáo thành bốn nhóm: Các tượng phổ quát trong điện thờ Đạo giáo, các tượng có mặt ở một số quán, các tượng chỉ có trong một vài quán cá biệt, và nhóm tượng mang tính hỗn dung Đạo - Phật. Điều ấy không chỉ cho thấy sự đa dạng về tín ngưỡng, mà còn phản ánh rõ nét đặc tính khoan dung và linh hoạt trong tâm thức tôn giáo của người Việt.

Vai trò lịch sử - văn hóa của Đạo giáo trong các giai đoạn biến động vào cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, khi xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng tư tưởng. Nho giáo mất dần tính chính danh, Đạo giáo với triết lý siêu thoát, an nhiên trở thành nơi nương náu tinh thần của giới trí thức và quan lại.

“Dường như họ đã tìm được trong thế giới ấy sự an yên, siêu thoát giữa những vòng chuyển xoay vô định của xã hội. Nhà Mạc, đã chọn cách tôn sùng Đạo giáo thần tiên như một phương thức bổ sung triết lý để củng cố quyền lực”, TS Nguyễn Thế Hùng cho biết.

Tuy nhiên, ở một hướng phát triển khác, nhà Lê trung hưng cũng không đứng ngoài cuộc. Giả thuyết khoa học đáng chú ý là sự ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh, cùng hệ thống thờ tự và các vị tiên bản địa là một phản ứng văn hóa - tôn giáo trước sự “chính trị hóa” Đạo giáo của nhà Mạc.

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan là học trò Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã góp phần hình thành một xu hướng khác, bản địa hơn: Tín ngưỡng thờ Mẫu và nội đạo Việt. Theo giới nghiên cứu, đây là một xu hướng khác của Đạo giáo hay là quá trình bản địa hóa của Đạo giáo tại Việt Nam ở thế kỷ 16. Đồng thời cũng là cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng giữa nhà Mạc và nhà Lê trung hưng.

Các quán Đạo giáo không đơn thuần là nơi thờ tự thần linh, mà còn là biểu hiện vật chất của các dòng chảy tư tưởng, phản ánh sự “hỗn dung tôn giáo” - một nét đặc trưng của văn hóa Việt. Không chỉ thờ các vị thần linh của Đạo giáo mà còn các vị thần dân gian, Mẫu thần, thậm chí kết hợp cả tượng pháp Phật giáo. Đó là minh chứng cho một xã hội có các tôn giáo không đối đầu, mà hòa tan vào nhau trong lòng dân tộc, như một cách ứng xử linh hoạt với thế giới tâm linh.

di-san-quan-dao-giao-4.jpg
Chùa Đa Sĩ (nguyên là Dương Lâm quán) từng là nơi các đạo sĩ tu tập, luyện đan, làm thuốc.

Nhận diện đúng để bảo tồn giá trị

Từ những biến đổi của quán Đạo giáo thành chùa hoặc đền, thậm chí nhiều di tích tồn tại cả 3 tôn giáo đã nhấn mạnh một điều quan trọng: Mọi cuộc chuyển mình trong tư tưởng đều gắn liền với các biểu tượng văn hóa cụ thể, và di tích tôn giáo là nơi lưu giữ những chuyển động ấy.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nhiều người lại quên mất vai trò của Đạo giáo trong những ngôi chùa vốn biến đổi từ quán. Hơn nữa, vì thiếu các công trình nghiên cứu chuyên sâu nên nhiều quán Đạo giáo còn bị hiểu sai, bị đồng nhất với kiến trúc chùa hay đền, dẫn đến việc tu bổ, trùng tu sai lệch, làm mất đi dấu tích ban đầu.

Giới nghiên cứu khẳng định, các quán Đạo giáo là loại hình di tích có bề dày lịch sử, phong cách kiến trúc riêng biệt và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt. Sự tồn tại của các quán như Linh Tiên, Hội Linh, Hưng Thánh, Lâm Dương... với dấu tích kiến trúc từ thế kỷ 16 - 17 cho thấy sự tồn tại của những quán Đạo giáo vô cùng độc đáo, mang đậm dấu ấn nghệ thuật, điêu khắc.

Từ các pho tượng phổ quát như Tam Thanh, Ngọc Hoàng, Bắc Đẩu - Nam Tào đến các pho tượng chỉ hiện diện trong những quán cá biệt như Tây Vương Mẫu, Đông Nhạc Đại Đế, và cả nhóm tượng thể hiện sự giao thoa với Phật giáo cho thấy, quán Đạo giáo mang sự tiếp biến văn hóa và sáng tạo tín ngưỡng đặc thù của người Việt.

“Trải qua các cuộc chiến tranh, đô thị hóa và biến đổi xã hội, nhiều quán Đạo giáo bị phá hủy, xuống cấp hoặc cải biến sai lệch. Trong khi đó, chính quyền và cộng đồng địa phương lại có xu hướng chú trọng hơn vào đình, chùa vốn quen thuộc hơn, khiến các quán Đạo ít được quan tâm, thậm chí bị đồng hóa. Đây là “lỗ hổng nhận thức” trong công tác quản lý di tích hiện nay”, TS Nguyễn Thế Hùng nhận định.

Bởi vậy, để lưu giữ các di tích, bảo tồn nét văn hóa, phát huy được các giá trị đặc sắc, người làm quản lý văn hóa, giới nghiên cứu cần xem các quán Đạo giáo như một bộ phận thiết yếu trong hệ sinh thái di sản văn hóa Việt Nam, cần được bảo tồn với đúng nhận thức, đúng phương pháp. Việc phục dựng các quán Đạo giáo không nên chỉ dừng ở hình thức kiến trúc mà phải đi kèm với việc hiểu rõ hệ thống tín ngưỡng, lễ nghi và biểu tượng tôn giáo bên trong.

Trong xu thế hội nhập và hiện đại hóa ngày nay, việc nhìn nhận lại các di sản tín ngưỡng bị ẩn khuất như quán Đạo giáo là hết sức cần thiết. Đó không chỉ là hành động bảo tồn, mà còn là cách để khơi dậy lại những lớp trầm tích văn hóa, giúp người Việt hôm nay hiểu sâu hơn về căn cốt tín ngưỡng của dân tộc mình - nơi Đạo, Phật, Nho không tách rời, mà hòa quyện trong từng nếp sống, mái đình, mái quán từ bao đời.

“Việc nhận diện đúng giá trị của các quán Đạo giáo không chỉ mang ý nghĩa học thuật, mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Chúng ta cần nhìn nhận lại vai trò và vị trí của một loại hình di sản đang bị lãng quên, đó là Đạo giáo; chúng ta cần bảo tồn theo đúng các quy chuẩn thì di sản mới không bị trộn lẫn, không bị mai một và mất đi - như rất nhiều quán Đạo đã mất đi dấu vết” - TS Nguyễn Thế Hùng.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/di-san-quan-dao-giao-nhan-dien-dung-quan-ly-chuan-post743361.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/di-san-quan-dao-giao-nhan-dien-dung-quan-ly-chuan-post743361.html
Bài liên quan
Quảng bá di sản Hoàng thành Thăng Long và khu di tích Cổ Loa tại Pháp
Ngày 7/7, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long-Hà Nội cho biết đang diễn ra các hoạt động quảng bá di sản Hoàng thành Thăng Long và Cổ Loa tại Pháp.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Di sản quán Đạo giáo: Nhận diện đúng, quản lý chuẩn