Khu vực nơi đường hầm bắt đầu được đánh dấu bằng 2 hố trên mặt đất. Những hố này do chính các tù nhân khi tập nhảy ngựa tạo ra. Chỉ cần đặt mô hình ngựa vào giữa 2 hố này, tù nhân sẽ dễ dàng tiếp cận miệng hầm mỗi lần đào.
Các điều kiện trong đường hầm được mô tả là khủng khiếp. Không khí trong lành gần như không có. Tù nhân đào bằng bay hoặc thuổng thô sơ làm từ hộp đựng thức ăn. Nguồn sáng duy nhất là ánh nến. Đường hầm rất chật hẹp.
Các tù nhân thường làm việc khỏa thân hoặc cởi trần đến thắt lưng vì sức nóng trong đường hầm, nhưng cũng để ngăn lính canh Đức phát hiện lớp đất vàng bên dưới dính trên quần áo của họ.
Những điều kiện này dần ảnh hưởng tới sức khỏe của những người đào hầm. Williams bị kiệt sức nghiêm trọng do công việc căng thẳng và thiếu oxy. Tù nhân này bị ốm đến mức phải nằm trong bệnh viện của nhà tù gần một tuần. Nhưng các tù nhân vẫn không bỏ cuộc.
Ngoài việc đào hầm, các tù nhân cần phải chuẩn bị giấy thông hành, thư từ, chứng chỉ, hộ chiếu, thẻ căn cước và giấy phép đi lại để có thể di chuyển ở châu Âu. Tất cả những thứ này đều được các tù nhân có kỹ năng của "ủy ban vượt ngục" chuẩn bị cho các tù nhân có tiềm năng trốn thoát.
Các tù nhân còn phải có quần áo dân sự. Tất cả các tù nhân được đưa vào nhà tù đều mặc đồng phục trong tù. Để đi lại ở châu Âu trong thời kỳ bị chiếm đóng, họ phải mặc quần áo thường dân để không gây chú ý cho quân Đức. Vấn đề này được các thợ may trong trại giải quyết. Họ tận dụng mọi thứ từ ga trải giường, chăn màn và bất kỳ đồng phục cũ bỏ đi nào để may được những bộ vest, áo gile, áo khoác ngoài, áo sơ mi... để giúp tù nhân ăn mặc như dân thường.
Những tù nhân dự định vượt ngục cũng cần những câu chuyện để che giấu thân phận. Tất cả những người có khả năng vượt ngục phải hoàn thành mọi giai đoạn trong kế hoạch vượt ngục mà họ đề xuất với "ủy ban vượt ngục". Ủy ban này có quyền kiểm soát giấy tờ giả, tiền, hộ chiếu, quần áo dự trữ, thực phẩm, thiết bị, bản đồ và bất cứ thứ gì khác mà một người trốn thoát có thể cần trong quá trình tìm kiếm tự do. Nhưng tù nhân chỉ có thể lấy được những thứ này nếu kế hoạch trốn thoát của họ được coi là khả thi.
Eric Williams, Richard Codner và Oliver Philpot, đều được cung cấp tiền, công cụ, trang phục của tầng lớp lao động, giấy phép lao động và hộ chiếu bằng tiếng Pháp. Khi bị kiểm tra, cả 3 sẽ nói họ là các công nhân Pháp.
Vượt ngục
Sau hơn 3 tháng miệt mài đào hầm, cuộc vượt ngục của Williams, Codner và Philpot bắt đầu vào tháng 10/1943. Ảnh minh họa: Salisbury Journal
Williams, Codner và Philpot đã hoàn thành đường hầm vào cuối tháng 10/1943, sau hơn 100 ngày miệt mài đào bới. Ngày 29/10/1943, bộ 3 quyết định vượt ngục.
Trời nhiều mây và không trăng giúp Williams, Codner và Philpot dễ dàng thực hiện cuộc đào tẩu. Một người thứ 4 giúp xóa sạch dấu vết ở lối vào đường hầm để tránh lính canh phát hiện.
Tới 18h, cả nhóm tới đầu ra của đường hầm và an toàn tới bìa rừng khi các lính canh mải chú ý tới hoạt động huyên náo của tù nhân trong nhà tù.
Williams và Codner đi cùng nhau, còn Philpot đi một mình. Codner nói thông thạo tiếng Pháp nên vượt qua mọi rào cản ngôn ngữ và dễ dàng tiếp xúc với bất kỳ phong trào kháng chiến địa phương nào.
Williams, không nói được gì ngoài tiếng Anh, được các thành viên của "ủy ban vượt ngục" khuyên rằng chỉ nên giả câm, hoặc tốt nhất là chỉ nói: “Tôi là người nước ngoài. Tôi không hiểu".
Bộ đôi này đi tàu hỏa tới thành phố cảng Stettin của Ba Lan. Tại đây, họ liên lạc được với những người lao động và công nhân bến tàu người Pháp, những người thuộc phong trào ngầm ở địa phương, và được giúp đỡ. Sau đó, Williams và Codner được đưa đến thành phố Copenhagen, Đan Mạch.
Mặc dù cả 2 cho rằng điều này là lãng phí thời gian vì Đan Mạch đang bị Đức chiếm đóng, nhưng những người thuộc phong trào ngầm ở Đan Mạch đảm bảo với họ rằng việc di chuyển từ Đan Mạch tới Thụy Điển sẽ dễ dàng hơn là từ Ba Lan đến Thụy Điển trực tiếp, vì số lượng tàu giữa Đan Mạch và Thụy Điển lớn hơn nhiều. Cuối cùng, Williams và Codner tới được thành phố Gothenburgở Thụy Điển và liên lạc được với Lãnh sự quán Anh.
Trong khi đó, Philpot tìm đường tới thành phố cảng Gdańsk của Ba Lan và lên tàu Aralizz để đi qua Biển Baltic đến Thụy Điển.
Sau khi con tàu đến Thụy Điển, Philpot được đưa tới cảnh sát Thụy Điển và đưa đến gặp quan chức Anh ở Stockholm vào ngày 4/11/1943. Một tuần sau, Philpot gặp lại Codner và Williams ở Thụy Điển. Sau đó, cả 3 lên máy bay về Anh an toàn, kết thúc hành trình vượt ngục khỏi nhà tù khét tiếng của Hitler. Không rõ, sau vụ vượt ngục, quân Đức có phát hiện ra mô hình ngựa rỗng và đường hầm hay không.
Sau chiến tranh, Williams viết cuốn sách "Wooden Horse" (tạm dịch: Ngựa Gỗ), xuất bản năm 1949, kể lại toàn bộ quá trình vượt ngục khỏi nhà tù Stalag Luft III. Năm 1950, cuốn sách được chuyển thể thành bộ phim cùng tên.
XEM THÊM CÁC KỲ
Kỳ đầu tiên123