Vua Lê Hiến Tông thăm thầy giáo cũ. Minh họa: INT. |
Vào thời Lê - Trịnh, có một thầy giáo rất nổi tiếng là Nguyễn Hoàn, cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn với việc đào tạo, dạy bảo Trịnh Sâm trở thành một người nổi tiếng hay chữ. Khi làm lễ khai tâm cho Thế tử Trịnh Sâm, chúa Trịnh Doanh sai Thế tử vào lạy thầy dạy học. Nguyễn Hoàn xin từ nhưng chúa nói: “Giáp Thành giập đầu vái Y Chu, Tống Trân cúi đầu lạy Vương Mãn, đó là lễ vậy”.
Nguyễn Hoàn dạy Thế tử học hành mau tiến tới, Thế tử ngày càng yêu mến thầy dạy. Một hôm chúa Trịnh Doanh ban yến tiệc trong phủ, sai Thế tử quét sân. Thế tử thấy miếng thịt rơi dưới đất bèn nhặt lên, chúa Trịnh Doanh trông thấy rất lấy làm mừng, bèn mời Nguyễn Hoàn vào ban thưởng 10 lạng bạc và thuật lại chuyện trên. Chúa nói: “Thế tử biết tiếc của trời, sau này sẽ giữ được thiên hạ, ấy là công dạy dỗ của thầy”.
Tháng 10/1758, chúa Trịnh Doanh phong cho Trịnh Sâm làm Thiết chế thủy bộ chư quân, chức Thái úy, tước Tĩnh Quốc công, mở phủ Lượng Quốc. Các việc cơ mật của nhà nước đều ủy cho tài phán quyết định. Lúc bấy giờ Giảng quan Nguyễn Hoàn làm Thập châm (10 điều châm) dâng lên.
Năm 1767, được kế vị ngôi chúa, Trịnh Sâm rất trân trọng và cảm phục đức độ, trí tuệ siêu việt của người thầy tôn kính. Chính vì thế mà năm sau, Nguyễn Hoàn đã dâng sách “Tiềm long thực lục” chép những việc trong quãng thời gian 23 năm từ khi Trịnh Sâm khai tâm đến lúc lên ngôi chúa, tiến phong là Nguyên soái tổng quốc chính, Tĩnh Đô vương.
Trịnh Sâm là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, được Nguyễn Hoàn dạy đến nơi đến chốn, có đủ tài văn võ, đã xem khắp kinh sử và biết làm thơ. Ngay từ những ngày đầu làm chúa, Trịnh Sâm đã cho sửa đổi lại từ kỷ cương triều nội đến chính sự cả nước được bề thế hơn. Đạo thầy – trò, dù là ở vai chúa hay bề tôi cũng vẫn trọn vẹn, để lại đức sáng “tôn sư trọng đạo” cho muôn đời sau soi tỏ.
Vào thời nhà Nguyễn, đạo lý “tôn sư trọng đạo” được nâng hàng thượng đạt, vai trò người thầy càng được coi trọng hơn bao giờ hết. Trong số các hoàng tử do Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuân dạy dỗ có Nguyễn Phúc Miên Tông (sau này là vua Thiệu Trị).
Năm 1838, ông dâng bản tấu xin về quê nghỉ dưỡng bệnh, vua Minh Mệnh ban chỉ rằng: “Trẫm xem bản tấu đã biết tình hình ốm bệnh của khanh nhưng hiện nay chưa tìm được người thay thế để dạy bảo hoàng tử. Vả lại quê quán của ngươi không xa, truyền cho ở lại Kinh, ta sẽ nhanh chóng tìm thầy chữa chạy và cấp thêm tiền bổng để thuốc thang, đợi mấy tháng sau nếu bệnh tình không thuyên giảm sẽ có chỉ sau”.
Thiệu Trị được biết đến là vị vua coi thầy như cha, khi lên ngôi năm 1841 vua ban Dụ cho Nội các rằng: “Tham tri Lễ bộ Nguyễn Đăng Tuân là người dạy dỗ Trẫm học hành, trải qua nhiều năm nên già yếu bệnh tật... nay các hoàng đệ của ta đã trưởng thành đều nhờ công lao dạy dỗ của viên ấy. Vậy nay lại gọi ra cho làm ấu bảo của hoàng tử và gia thưởng hàm Thượng thư”.
Bản phụng Thượng Dụ cho Nguyễn Đăng Tuân khôi phục nguyên hàm Thượng thư sung làm sư bảo để dạy dỗ các hoàng tử, hoàng đệ (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I/Châu bản triều Nguyễn). |
Tháng 8 năm đó vua Thiệu Trị lại ban một đạo Dụ: “Từ cổ xưa các bậc đế vương yêu thương con em mình đều rất cẩn trọng chọn bậc chính nhân quân tử làm thầy dạy dỗ. Nay xét thấy đang thiếu người làm sư bảo, vậy truyền cho Nguyễn Đăng Tuân khôi phục giữ nguyên hàm Thượng thư sung làm sư bảo cho các hoàng tử…”.
Có thể thấy vua Thiệu Trị rất thành kính trọng thị đối đãi với thầy học. Nhà vua nói với hoàng tử trưởng Hồng Bảo rằng: “Con học thức còn nông kém, phàm gặp việc gì đều cần phải hỏi đến Sư bảo. Cổ nhân còn vái lạy khi được nghe lời nói chính đáng, huống chi là đối với thầy học”.
Tháng 9 năm 1842, Nguyễn Đăng Tuân dâng sớ tâu bị chứng bệnh đau đầu khó thở, xin về quê điều dưỡng. Nhà vua tuyên chỉ đến thăm hỏi thấy bệnh tình rất nặng bèn cho giữ nguyên hàm Thượng thư về quê hưu dưỡng, ban thưởng 10 con sâm Cao Ly, 10 tấm quế Thanh, 100 lạng bạc để chi cho việc thuốc thang.
Lại truyền Bộ Công phái thuyền có mui cho binh lính đi theo, bộ Lễ phái một thuộc viên, Viện Thái y phái một thuộc viên để hộ tống. Ngày lên đường, vua truyền Hoàng tử Hồng Bảo đích thân tiễn đưa thầy dạy lên thuyền và truyền cho quan tỉnh điều phái phu trạm đợi sẵn để hộ tống thầy về quê.
Tháng 12 năm 1844, Nguyễn Đăng Tuân mất tại quê nhà, thọ 72 tuổi. Vua Thiệu Trị vô cùng thương xót, cho truy tặng hàm Thiếu sư, lại ban cho tên thụy là Văn Chính, gia cấp cho 3 cây gấm hoa, 5 cây sa hoa, vải lụa mỗi thứ 50 tấm, 1.000 quan tiền.
Ngày an táng thầy giáo Nguyễn Đăng Tuân, vua Thiệu Trị có Dụ rằng: “Tiên sinh là bậc kỳ cựu ba triều, tuổi và đức đều đáng trọng. Ngày trước, khi Trẫm còn ở Đông cung, phần nhiều nhờ tiên sinh giảng dạy đạo phải, không ngờ tiên sinh ra đi lần này, trở thành vĩnh biệt. Văn thơ này đều do Trẫm sáng tác để làm vinh điển trọng đạo, tôn vinh đầy đủ hành trạng trước sau, một lòng trung hiếu của tiên sinh. Vậy nên cho khắc vào đá, truyền mãi về sau”.