Để khuyến khích nhập học và giải trí cho những sinh viên dành 5 hoặc 6 năm để hoàn thành bằng cấp 4 năm, các trường biến các cơ sở của họ thành các cơ sở nghỉ dưỡng và xây dựng các chương trình thể thao thay vì giải quyết các vấn đề cản trở sự tiến bộ của sinh viên đối với sự nghiệp của họ.
Một cuộc điều tra của Richard Aron và Josipa Roksa - hai nhà kinh tế học của Đại học California - chỉ ra rằng vào năm 1961, sinh viên đại học toàn thời gian dành 24,5 giờ một tuần cho việc học bên ngoài lớp học; đến năm 2003, tổng số giờ đó giảm xuống còn 14,5 giờ.
Richard Aron và Josipa Roksa nhận thấy rằng đến năm 2011, thời lượng học đã giảm xuống còn 12 giờ một tuần. Một phần ba số học sinh được theo dõi bởi ông Aron và bà Roksa đã dành ít hơn 5 giờ học một tuần.
Vậy phải chăng, những cơ sở giáo dục này đã dành quá nhiều thời gian và tiền bạc để xây dựng thương hiệu của họ và lãng quên đi những thứ cần thiết cho sinh viên? Sự mất cân bằng không phải là những vấn đề mới, tuy nó đã bị bỏ qua từ rất lâu, nhưng đã có những đề xuất nhằm tạo ra những thay đổi tích cực.
Cho phép sinh viên tham gia một học kỳ, hoặc một khóa học, từ bất kỳ cơ sở giáo dục được công nhận bởi nhà nước, và tập hợp một chương trình học từng phần mà không cần cam kết 4 năm với một trường đại học duy nhất.
Theo các quy tắc hiện hành, học sinh có thể chuyển từ cơ sở giáo dục này sang cơ sở giáo dục khác, nhưng chỉ với chi phí khủng khiếp, vì học sinh trung bình mất 43% tín chỉ đại học sau khi chuyển trường.
Trong lần tái ủy quyền tiếp theo của Đạo luật Giáo dục Đại học của liên bang, chính phủ nên xem xét lại quyền đánh giá và công nhận của “người đánh giá bên thứ 3” hay cụ thể hơn là những sinh viên đã trải qua các khóa học của ngôi trường ấy.
Các cuộc đánh giá công nhận sẽ trở nên khách quan và thực tế hơn một đánh giá duy nhất cho toàn bộ bộ máy giáo dục. Một số lượng người nhỏ thì thường rất khó để có thể đưa ra những đánh giá chính xác về vô số những chương trình học.
Tồi tệ hơn, với những người thiếu kinh nghiệm, việc đánh giá có thể trở nên phiến diện, thiếu khách quan. Thay vì đánh giá các quy mô khuôn viên rộng lớn với hàng nghìn sinh viên và hàng trăm chương trình học chỉ bằng những đánh giá phiến diện như “thích” hay “không thích”.
Đặc biệt, mục tiêu chính mà các trường đại học Mỹ không thể quên đó chính là để sinh viên biết trước liệu chương trình họ đã chọn có thể cung cấp đủ kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà họ đã kỳ vọng hay không.
Những yếu tố dẫn tới kết luận: Các trường cao đẳng và đại học đã trở nên “u mê” trước “thương hiệu” của họ và lãng quên đi sinh viên của mình. Đó chính là sự mơ hồ, nhập nhằng về chất lượng đầu ra của sinh viên, đồng thời dấy lên một câu hỏi: Liệu một khuôn viên khổng lồ mà các cơ sở giáo dục ấy tạo ra có thể bảo đảm được năng lực và tương lai của họ?
Đối với mục tiêu tạo ra một loạt các chương trình và khóa học mục tiêu như vậy thành một chứng chỉ hoặc bằng tốt nghiệp, chúng ta có thể thông qua những cơ quan trực thuộc chính phủ hoặc tư nhân mà Richard Vedder - Giáo sư kinh tế danh dự tại Đại học Ohio - mô tả là “Đánh giá Học tập tại Đại học” (tương tự như Dịch vụ Khảo thí Giáo dục College Board).
Điều này chứng tỏ rằng, các sinh viên không cần phải nhập học vào những cơ sở giáo dục kém uy tín, hoặc có những vấn đề về thời gian trong quá trình học tập, họ vẫn có thể có những tấm bằng cử nhân chứng thực cho năng lực của họ.
Đồng thời, hãy biến việc tiếp cận giáo dục trở thành “điều nghiễm nhiên”, và không chỉ thông qua các chương trình ngẫu nhiên, và rút ngắn thời gian hoàn thành bằng cử nhân có thể được chứng nhận trong ít nhất ba năm cho tất cả các bằng cấp. Tránh việc kéo dài thời gian trong việc cấp bằng cho các sinh viên.
Giáo dục sau đại học “từ xa” theo mô hình do James Hankins của Đại Học Harvard đề xuất. Phương pháp giáo dục đó không phải là gửi sinh viên đến các quốc gia khác, mà tạo thành các cơ sở giáo dục độc lập, theo chuyên ngành cụ thể. Theo đó, các viện nghiên cứu về toán học, kinh tế học ở cấp độ sau đại học, chính trị hoặc nhân văn.
Điều này sẽ giải tỏa mớ bòng bong hiện tại ở nhiều trường đại học Mỹ đang cố gắng đáp ứng đồng thời nhu cầu rộng rãi của sinh viên chưa tốt nghiệp và những nhu cầu được mở rộng kiến thức, khám phá bản thân của những sinh viên đã tốt nghiệp.