Hợp tác quốc tế trong giáo dục mở ra cơ hội tiếp cận tri thức toàn cầu và là đòn bẩy nâng cao chất lượng đào tạo, tăng sức cạnh tranh cho nguồn nhân lực Việt Nam. Với hàng chục nghìn sinh viên tham gia trao đổi mỗi năm, giáo dục Việt Nam đang hội nhập sâu rộng nhưng vẫn đối mặt thách thức về chất lượng, kiểm định và thu hút sinh viên quốc tế.
Hợp tác quốc tế trong giáo dục hiện được xác định là yếu tố gắn liền với tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước. Đây không chỉ là xu thế tất yếu của hội nhập mà còn là nguồn lực quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, đóng góp trực tiếp vào nền kinh tế. Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc nhấm mạnh nội dung này tại Hội nghị tập huấn công tác hợp tác quốc tế, thông tin đối ngoại trong giáo dục và đào tạo được tổ chức sáng ngày 11/9.
Thứ trưởng cho biết, trọng tâm của hợp tác quốc tế hiện nay là nâng cao chất lượng nhân lực, với tác động thực chất đến hàng nghìn sinh viên và giảng viên, thay vì chỉ nhìn vào quy mô ngân sách. Thực tế, hàng nghìn sinh viên và giảng viên (14–21.000 người) đang hưởng lợi trực tiếp từ các chương trình này.
Trong bối cảnh hội nhập, hợp tác quốc tế đã trở thành "dòng chảy tất yếu" của giáo dục đại học. Theo Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, hợp tác quốc tế là nguồn lực quan trọng thúc đẩy đào tạo và bồi dưỡng nhân lực. Thực tiễn này sẽ góp phần cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế.
Theo Cục Hợp tác quốc tế (Bộ GD&ĐT), trong 3 năm 2023–2025, Bộ GD&ĐT đã ký 47 văn bản hợp tác quốc tế, gồm 18 điều ước và 29 thỏa thuận cấp bộ, trong đó có 8 văn bản công nhận tương đương văn bằng với Áo, Belarus, Nga, Pháp, Trung Quốc và Ukraina. Hoạt động đối ngoại của ngành giáo dục diễn ra sôi động, với khoảng 50 đoàn công tác ra nước ngoài mỗi năm và nhiều đoàn quốc tế đến Việt Nam để trao đổi kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác. Việt Nam cũng tích cực tham gia các diễn đàn giáo dục đa phương, giữ vai trò Chủ tịch Hội đồng Giáo dục ASEAN (2022–2023), Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo dục Đông Á (2025–2026) và dự kiến là Chủ tịch APEC 2027.
PGS.TS Nguyễn Thu Thủy – Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế cho biết các đối tác chính của Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, trong khi nguồn đầu tư FDI vào giáo dục chủ yếu đến từ Hoa Kỳ, Singapore và Hàn Quốc. Đến ngày 30/6/2025, cả nước có 423 chương trình liên kết đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học, trải rộng trên 77 ngành đào tạo và 67 chương trình liên kết cụ thể theo ngành, trong đó ngành kinh tế - quản lý chiếm 51%, khối STEM chiếm gần 20%. Bên cạnh đó, 32 trường cao đẳng cũng triển khai các chương trình liên kết đào tạo, theo thống kê của Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên.
Hợp tác quốc tế ở bậc phổ thông và mầm non chủ yếu tập trung tại các địa phương như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Quảng Ninh, Hải Phòng và Quảng Nam. Những cơ sở thu hút giảng viên và sinh viên nước ngoài nhiều nhất gồm Đại học Quốc gia TPHCM, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Huế và RMIT Việt Nam.
Đến tháng 8/2025, Đề án 89 đã cử 244 giảng viên đi học tiến sĩ tại 22 quốc gia. Trong giai đoạn 2020–2024, hơn 3.500 học sinh, sinh viên được cử đi học theo các học bổng hiệp định, chủ yếu ở bậc đại học, trong khi số học viên tiến sĩ gần 600 người. Ngoài ngân sách nhà nước, các học bổng khác đến từ Nhật Bản (JDS), Úc (Australia Awards/Aus4Skills) và một số quốc gia khác. Quản lý chuyên gia nước ngoài và người Việt làm việc ở nước ngoài được thực hiện theo Nghị định 70/2023 và Nghị định 221/2023, với mục tiêu thu hút các nhà khoa học và giảng viên trở về Việt Nam.
Về sinh viên quốc tế tại Việt Nam, tổng số vẫn còn thấp so với Malaysia, Đài Loan, Hồng Kông hay Singapore. Trung bình mỗi cơ sở có 39 sinh viên dài hạn và 20–30 sinh viên ngắn hạn, chủ yếu đến từ Lào, Pháp, Anh, Singapore, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Các Nghị quyết 71-NQ/TW, Nghị quyết 59-NQ/TW và Quyết định 1600/QĐ-TTg đặt ra các mốc quan trọng: đến năm 2030, đảm bảo các tiêu chuẩn về giáo dục mầm non, phổ thông, nâng cao xếp hạng đại học, đồng thời cải thiện cơ sở vật chất và chất lượng giảng viên; đến năm 2035, chú trọng nâng cao chỉ số phát triển con người, đảm bảo công bằng và chất lượng giáo dục; và đến năm 2045, toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân hướng tới nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới, với nguồn nhân lực chất lượng cao và các cơ sở đào tạo đạt chuẩn quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, ngành giáo dục đặt mục tiêu nâng cao hiệu quả, đồng bộ và toàn diện, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, bao trùm các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học, quốc phòng và an ninh.
Để đạt được các mục tiêu này, Cục trưởng Nguyễn Thu Thủy cho biết cần tập trung vào một số nhóm nhiệm vụ chính, bao gồm hoàn thiện cơ chế và chính sách đột phá, mở, khuyến khích hợp tác quốc tế, giáo dục số và giáo dục xuyên biên giới, đồng thời thu hút sinh viên và chuyên gia nước ngoài; đẩy mạnh hợp tác và giao lưu quốc tế giữa các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước, phát triển môi trường học tập quốc tế; nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo tiêu chuẩn và phát triển các chương trình liên kết với những trường đại học thuộc top 500 thế giới; cũng như đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên và nhà quản lý, tăng cường đào tạo nhân lực trình độ cao theo nhu cầu quốc gia và xu hướng quốc tế.
Bên cạnh đó, bà Thủy cũng khuyến cáo cần tăng cường truyền thông để phòng chống giả mạo văn bản và học bổng lừa đảo, xây dựng chiến lược chuyển đổi sinh viên quốc tế ngắn hạn sang dài hạn, đồng thời mở rộng đầu tư FDI và nâng cấp cơ sở giáo dục, đặc biệt ở bậc phổ thông và các cơ sở chất lượng cao.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Phúc cho biết sau khi lắng nghe ý kiến của lãnh đạo các trường đại học, sở giáo dục và các chuyên gia, ông nhận thấy cần tập trung hành động để tạo ra sự phát triển thực chất.
Theo Thứ trưởng, xu thế hiện nay là toàn cầu hóa. Khi triển khai các chương trình hợp tác quốc tế, ngành giáo dục đã có báo cáo đánh giá thực trạng và đạt được nhiều kết quả tích cực trong những năm qua. "Hôm nay, các trường và sở giáo dục đào tạo có thể trao đổi để xây dựng kế hoạch phát triển tốt hơn trong thời gian tới. Chúng ta phải nhìn rõ thuận lợi và đưa ra giải pháp để phát triển mạnh mẽ hơn," ông nhấn mạnh.
Ông dẫn chứng, ngay tại Trung Quốc có những ngành đào tạo tới 1,5 triệu sinh viên. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải cung cấp thông tin đầy đủ để các trường, các sở chủ động xây dựng chương trình phát triển hiệu quả. "Thông tin phải rõ ràng, kịp thời để các trường, các sở lập kế hoạch và thực hiện", ông nói.
Một vấn đề khác được Thứ trưởng lưu ý là hợp tác quốc tế của các trường. Bộ GD&ĐT cần cung cấp danh sách đối tác để bảo đảm việc hợp tác hiệu quả. Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo trong nước, đồng thời nâng cao tính tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và cả xu thế ‘phi toàn cầu hóa’, tức các quốc gia tăng cường tự chủ trong giáo dục và phát triển nhân lực.
Về quản lý các trung tâm giáo dục, Thứ trưởng nhắc lại sau khi có Nghị định 86, hệ thống các trung tâm ngoại ngữ, tin học, kỹ năng sống, tư vấn du học, tư vấn văn hóa – chính trị được phân cấp cho các sở giáo dục và đào tạo quản lý. Ông đề nghị các cơ sở phải có báo cáo thường xuyên, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động các trung tâm, đồng thời quy định rõ tiêu chí để bảo đảm chất lượng.
"Điều then chốt vẫn là xây dựng đội ngũ giáo viên vững mạnh, bởi đây là lực lượng trực tiếp triển khai các chương trình hợp tác quốc tế". Thứ trưởng nhấn mạnh, coi đây là điều kiện tiên quyết để hợp tác quốc tế trong giáo dục đạt hiệu quả và đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực chất lượng cao.