Ngành Giáo dục đang nỗ lực đẩy mạnh chuyển đổi số. Trong bối cảnh đó, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm định chất lượng là giải pháp nền tảng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo chất lượng giáo dục bền vững.
Theo ông Phan Trọng Hải - Phó Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Huệ (Vĩnh Long), công nghệ thông tin giúp chuyển đổi phương thức làm việc từ thủ công, phức tạp, sang hiện đại, khoa học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bền vững.
Thay vì lưu trữ hàng nghìn trang tài liệu, tất cả minh chứng, báo cáo đều được số hóa, lưu trữ trên hệ thống cơ sở dữ liệu. Từ đó, việc tìm kiếm, tra cứu, đối chiếu thông tin nhanh chóng, dễ dàng chỉ với vài cú nhấp chuột. Khi minh chứng được mã hóa, sắp xếp khoa học và gắn với từng tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể, đoàn đánh giá ngoài dễ dàng truy cập, kiểm tra, xác thực thông tin.
Các phần mềm chuyên dụng có thể tự động thu thập dữ liệu, tổng hợp và tạo ra các báo cáo tự đánh giá theo mẫu quy định của Bộ GD&ĐT; từ đó, giảm thiểu sai sót, tiết kiệm đáng kể thời gian. Các nền tảng quản lý cho phép phân công nhiệm vụ, theo dõi tiến độ và tương tác giữa các thành viên trong hội đồng tự đánh giá một cách khoa học, hiệu quả. Kết quả kiểm định, báo cáo tự đánh giá được công khai giúp xã hội, phụ huynh, người học dễ tiếp cận, giám sát.
Ông Hải cho biết, hiện nay, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên Trường THPT Nguyễn Huệ ứng dụng công nghệ thông tin khá tốt. Nhà trường số hóa hầu hết hồ sơ theo quy định. Tuy nhiên, dữ liệu được lưu trữ trên nhiều phần mềm khác nhau, còn rời rạc. Khó khăn trong công tác này chủ yếu bởi chi phí vận hành phần mềm; phần mềm kiểm định chưa liên thông nên phải làm thủ công chuyển dữ liệu từ các phần mềm lưu trữ qua phần mềm kiểm định chất lượng.
Ông Nguyễn Văn Hoàng - Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Huệ (Hưng Yên) cho rằng, kiểm định chất lượng đòi hỏi nhiều minh chứng, dữ liệu, báo cáo…; thực hiện thủ công mất nhiều thời gian, tốn kém nguồn lực, dễ sai sót, khó bảo đảm minh bạch. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp số hóa toàn bộ quy trình, từ lưu trữ minh chứng, xây dựng báo cáo tự đánh giá, đến quản lý cơ sở dữ liệu kiểm định.
Điều này tạo sự thống nhất, thuận lợi cho công tác giám sát, truy xuất thông tin, nâng cao tính công khai, khách quan; đồng thời, mở ra khả năng kết nối dữ liệu đồng bộ từ cấp trường tới cấp Bộ, hình thành hệ thống quản lý hiện đại, phục vụ ra quyết định nhanh chóng, chính xác.
Nhiều cơ sở giáo dục đã bước đầu triển khai công nghệ thông tin trong kiểm định: Hồ sơ, minh chứng được số hóa; một số phần mềm quản lý kiểm định được sử dụng. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Hoàng, việc triển khai còn cục bộ, thiếu đồng bộ giữa các đơn vị, chưa có phần mềm chung cho toàn quốc.
Khó khăn, hạn chế nổi bật có thể kể đến: Nhiều trường, đặc biệt là vùng sâu, xa, còn thiếu thiết bị, đường truyền Internet chưa ổn định. Không ít cán bộ, giáo viên, nhân viên làm công tác kiểm định chưa thành thạo kỹ năng số, còn lúng túng trong khai thác phần mềm, công cụ công nghệ thông tin.
Hệ thống phần mềm và dữ liệu, thiếu một nền tảng chung thống nhất toàn ngành; nhiều nơi phải tự phát triển hoặc sử dụng phần mềm khác nhau, gây khó khăn chia sẻ dữ liệu, kiểm tra chéo và đánh giá tổng thể. Kinh phí đầu tư công nghệ thông tin phục vụ kiểm định còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà trường, chưa đủ để nâng cấp đồng bộ.
Thông tin nhà trường bắt đầu ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định (xây dựng kho minh chứng điện tử, lập báo cáo tự đánh giá trên phần mềm), ông Nguyễn Mai Trọng - Hiệu trưởng Trường Tiểu học & THCS A Xing (xã Lìa, Quảng Trị) cũng nhắc đến khó khăn tương tự.
Theo đó, hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ, đường truyền yếu, thiết bị hạn chế, đặc biệt ở vùng khó khăn. Thiếu phần mềm chuyên dụng thống nhất, nhà trường phải làm thủ công hoặc sử dụng công cụ không chuẩn hóa (Google Drive, Excel...). Năng lực công nghệ thông tin của đội ngũ còn hạn chế, thiếu kỹ năng quản lý minh chứng điện tử. Khối lượng dữ liệu lớn, việc số hóa và phân loại minh chứng tốn thời gian, dễ sai sót.
Để phát huy hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định chất lượng giáo dục, ông Nguyễn Văn Hoàng cho rằng, Bộ GD&ĐT cần sớm ban hành, triển khai một phần mềm quản lý kiểm định chất lượng giáo dục dùng chung cho cả nước. Phần mềm này phải có tính mở, dễ sử dụng, bảo mật cao, có khả năng kết nối dữ liệu liên thông giữa các cấp.
Ưu tiên nâng cấp đường truyền Internet, trang thiết bị máy tính, máy chủ, đặc biệt hỗ trợ các trường ở vùng khó khăn để đảm bảo mọi cơ sở giáo dục đều có điều kiện triển khai. Nhà nước cần có nguồn kinh phí đặc thù để đầu tư cho công nghệ thông tin phục vụ kiểm định, đồng thời khuyến khích xã hội hóa, huy động nguồn lực từ các tổ chức, doanh nghiệp đồng hành.
Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Huệ cũng nhấn mạnh cần đổi mới phương thức quản lý và đánh giá, từng bước thay thế việc lưu trữ giấy tờ bằng cơ sở dữ liệu điện tử; triển khai đánh giá trực tuyến, giám sát từ xa, tăng tính minh bạch và tiết kiệm chi phí.
Tổ chức các khóa tập huấn chuyên sâu cho cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên phụ trách công tác kiểm định nhằm nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, khai thác hiệu quả các phần mềm. Tạo diễn đàn trao đổi, chia sẻ giữa các cơ sở giáo dục đã triển khai thành công mô hình kiểm định số, nhân rộng điển hình và hỗ trợ đơn vị còn khó khăn.
“Bộ GD&ĐT sớm đưa nội dung ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm định chất lượng vào Chiến lược chuyển đổi số quốc gia về giáo dục; có cơ chế hỗ trợ cụ thể cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt ở vùng nông thôn, miền núi; đồng thời xây dựng đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật thường trực để đảm bảo quá trình triển khai không bị gián đoạn”, ông Hoàng kiến nghị.
Từ thực tiễn trường vùng khó, Hiệu trưởng Nguyễn Mai Trọng cho rằng, cần tăng cường đầu tư hạ tầng và thiết bị công nghệ thông tin, đảm bảo mạng ổn định, có máy chủ lưu trữ dữ liệu kiểm định. Xây dựng phần mềm quản lý minh chứng và kiểm định thống nhất ở cấp sở hoặc xã, kết nối dữ liệu giữa các trường.
Tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng công nghệ thông tin và nghiệp vụ kiểm định cho cán bộ phụ trách. Khuyến khích chia sẻ kinh nghiệm giữa các trường, tăng cường đánh giá, công nhận các mô hình kiểm định chất lượng điện tử tiêu biểu, tạo động lực cho các cơ sở giáo dục triển khai.
Ông Nguyễn Mai Trọng nêu quan điểm: “Kiểm định chất lượng giáo dục đòi hỏi xử lý lượng dữ liệu lớn, đa nguồn, phức tạp. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp tự động hóa, số hóa, chuẩn hóa quy trình, góp phần tăng tính khách quan, minh bạch, hiệu quả; lưu trữ và truy xuất minh chứng nhanh chóng, tránh thất lạc, trùng lặp. Việc này giúp nhà trường dễ dàng cập nhật, chia sẻ minh chứng trực tuyến với các đoàn đánh giá ngoài, nâng cao năng lực quản trị nhà trường”.