TS Vũ Mạnh cho biết, kết quả phân tích hàm lượng dinh dưỡng và dư lượng kim loại nặng của 5 loại cây rau (đề cập phía trên) cho thấy tất cả đều có hàm lượng Protein khá cao, từ 1,84 đến 2,97%, riêng rau Ngót đạt đến 5,24%.
Các chất khoáng như K, Mg và Ca của 5 loại rau cũng ở mức khá, trong đó rau Ngót giàu K nhất với 9,395 mg/kg, thấp nhất như Bình bát dây cũng đạt 3,893 mg/kg. Rau Ngót cũng là loại giàu Ca nhất, ở mức 5,470 mg/kg so với 4 loại khác chỉ khoảng từ 1,559 - 6,603 mg/kg. Tất cả 5 loại rau rừng đều không phát hiện kim loại nặng.
“Điều này chứng tỏ tất cả giống rau được chọn đều sinh trưởng nhanh và chất lượng tốt. Tuy vậy, do đặc tính sinh học - sinh thái khác nhau, nên sinh trưởng của 5 giống rau này là khác nhau, và có sự biến động khá lớn giữa các cá thể trong cùng loại.
Vì thế, căn cứ vào hàm lượng dinh dưỡng và khả năng sinh trưởng, nhóm thực hiện đề xuất chọn 3 loại rau là Lìm kìm, Diễn và Bui để xác định khả năng chịu mặn, kỹ thuật trồng, nuôi dưỡng và thu hoạch”, TS Vũ Mạnh cho biết.
Kết quả thực nghiệm tiếp theo cho thấy, cả 3 loại rau sống được ở môi trường đất có hàm lượng muối hòa tan dưới 7‰. Thời gian thu hoạch rau vào khoảng 2 tháng sau khi trồng.
Xét trên từng m2, nhận giá trị cao ở rau Diễn (0,550 kg/m2), kế đến là rau Lìm kìm (0,450 kg/m2), thấp nhất là rau Bui (0,299 kg/m2). Sản lượng của ba loại rau này biến động rất nhỏ, chứng tỏ sự phân bố đồng đều trên mặt đất. Kết quả thu hoạch quy mô 1.000m2, thì sản lượng thu hoạch từ rau Bui, rau Diễn và rau Lìm kìm tương ứng đạt 300, 550 và 299 (kg/1000 m2).
Việc tìm kiếm và đưa vào canh tác ba loại rau chịu mặn từ rừng ngập mặn Cần Giờ không chỉ là giải pháp chống chịu với nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu trong tương lai, mà trước mắt sẽ giải quyết bài toán cấp thiết về rau xanh tại Cần Giờ, đưa vào cơ cấu rau của TPHCM.