Ngày ấy kinh tế đất nước đang ở thời kỳ khó khăn nhất vì vừa đi qua chiến tranh và chưa có “khoán 10”. Trong số 22 bạn của lớp phải đến 3/4 các bạn có bố mẹ là nông dân, quanh năm thiếu đói. Ngày Tết mới được ăn thịt.
Trong lớp có bạn Vũ Đức Sơn (người đã giành giải Nhất về môn Toán toàn thành phố và thi đỗ vào lớp chuyên toán của Đại học Tổng hợp Hà Nội) có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bố mất sớm, mẹ làm ruộng. (Hiện nay bạn Sơn đang định cư tại Cộng hòa Liên bang Đức). Mùa đông rét buốt mà Sơn chỉ có một manh áo mỏng. Thầy Toán đã dùng tiền lương của mình mua tặng bạn một chiếc áo ấm.
Mẹ tôi năm ấy bị điện giật phải nằm viện, cô Hải đã đưa cả lớp đến thăm và chính cô đã trích từ tiền lương của mình mua thuốc tặng mẹ tôi...
Có rất nhiều chuyện cảm động về tình thương của các thầy giáo, cô giáo lúc ấy đối với học trò, nhưng đáng nhớ nhất chính là những ngày cả thầy trò quên ăn, quên ngủ cùng giải Toán, cùng đọc thơ.
Thầy giáo trẻ Phạm Toán “vốn liếng” đề toán có hạn, thầy đã dùng tiền lương của mình đặt báo “Toán học và tuổi trẻ”, mua các loại sách tham khảo về toán. Thầy còn khuyến khích các trò sưu tầm đề toán, đố nhau giải toán. Tổ Toán của lớp vào buổi chiều lúc nào cũng vui.
Cô giáo Đào Thị Hải có cách dạy văn “chẳng giống ai”, đó là dẫn cả lớp đi thực tế, đến bờ sông, bờ mương, ruộng lúa, đền, chùa để dạy cách cảm thụ văn học. Các buổi học thực tế này rất thú vị. Bởi lẽ, vẫn là cây lúa, nhưng có bạn hình dung nó như người mẹ già cúi xuống ôm con. Có bạn thấy lúa như người khiêm tốn đang đứng cúi đầu chào. Có bạn liên tưởng đến nồi cơm thơm gạo mới…
Mỗi lần thi học sinh giỏi ở thị trấn huyện cách trường của chúng tôi gần 10 km, cả thầy và trò cùng lóc cóc đi bộ từ 5 giờ sáng... Không khí học tập lúc đó vừa nhẹ nhàng, vừa tình cảm lại có sự khích lệ đặc biệt của các thầy, cô giáo nên cả lớp chúng tôi đều quan niệm “mỗi ngày đến lớp là một ngày vui”. Thầy truyền hứng khởi cho học trò. Học trò truyền hứng khởi cho nhau. Đó chính là nguyên nhân quan trọng nhất tạo ra sự đột phá trong học tập của lớp chúng tôi ngày ấy.
45 năm sau ngày ra trường, thầy Nguyễn Côn, thầy Phạm Toán và bạn Bùi Kim Bảy đã về cõi vĩnh hằng. Cô Đào Thị Hải và nhiều bạn trong lớp đã lên chức ông, bà và đã nghỉ hưu. Một số bạn đã trở thành cán bộ cấp cao của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Mỗi lần gặp mặt, chúng tôi lại như về với thế giới tuổi thơ của mình.
Phương pháp dạy, phương pháp học ngày ấy có thể áp dụng cho ngày hôm nay được không? Chúng tôi nghĩ rằng, có thể vận dụng được dù cơ sở vật chất bây giờ đã thay đổi, tài liệu dạy và học không thiếu như thời xưa. Điều quan trọng nhất của phương pháp này là sự nhiệt huyết của người thầy thổi bùng ngọn lửa đam mê của học trò. Đây là yếu tổ quyết định đến chất lượng giáo dục luôn đúng của cả hôm qua, hôm nay và mai sau.