Các yếu tố tạo nên nghệ thuật uống trà Việt bao gồm: nhất thuỷ, nhì trà, tam pha, tứ ấm, ngũ trạch, lục nhạc. Trạch chính là không gian thưởng trà, thường thấy là bên mái hiên nhà, hòa hợp với thiên nhiên, không đóng kín trong phòng. Còn nhạc là âm thanh, không chỉ của tiếng đàn sáo ngân nga mà còn là tiếng nước sôi, tiếng chim hót, tiếng ngọn gió lao xao ngoài bụi tre. Trà cụ, tức đồ dùng pha trà đạt sự tối giản cần thiết, mọi thứ đều đủ, không hoa mỹ phô trương. Nhưng vẫn toát nên sự tường minh trong thưởng trà của người Việt.
Chính vị sự giản dị và tinh tế mà chỉ cần 4 bước để có được một ấm trà ngon: tráng ấm chén, đánh thức trà, pha trà và thưởng trà.
Bà Võ Thị Tam Dân- Giám đốc công ty cổ phần Trà Rồng Vàng
Việt Nam là quốc gia có trữ lượng trà xuất khẩu lớn thứ 5 thế giới, và đứng thứ 7 về sản xuất trà. Cây trà hay cây chè, trở thành loại cây công nghiệp, được trồng chủ yếu ở miền núi và trung du Bắc Bộ (chiếm khoảng 70%), kế đến là Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ và đồng bằng Bắc Bộ.
Có tới 170 giống trà được trồng và phát triển tại nước ta, từ những giống lâu đời như: shan tuyết, móc câu, trà xanh, trà ướp hướng đến những giống ngoại nhập như Ô Long, kim xuyên, thanh tâm, tứ quý, thúy ngọc...
Từ điểm bắt đầu Cầu Đất, Đà Lạt, cây trà đã có mặt tại Di Linh và Bảo Lộc sau 1930, trở thành cây công nghiệp xuất hiện sớm nhất ở vùng đất B'lao. Lâm Đồng được xem là địa phương có diện tích trà lớn nhất cả nước. Trong các tỉnh thành VN, TP. Bảo Lộc, Lâm Đồng là nơi có điều kiện lý tưởng nhất để trồng Ô Long – một nhóm trà hảo hạng, nhiều giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế cao.
Nằm ở độ cao trên 900m so với mực nước biển, khí hậu mát mẻ quanh năm nên Bảo Lộc trở thành mảnh đất trù phú và phù hợp cho việc trồng trà Ô Long.
Để có một sản phẩm trà Ô Long chất lượng, đạt tiêu chuẩn cao thì đầu tiên chúng ta phải hái một búp trà đạt tiêu chuẩn: 1 tôm 2 lá, 2 đến 3 lá non.
Quá trình chế biến trà Ô Long chúng ta phải tuân thủ nghiêm ngặt từ khâu làm héo nắng tới héo mát, quá trình lên men và định hình cuối cùng, khâu sấy thành phẩm. Tất cả đều quan trọng.
Nghệ nhân làm trà 20 năm
Phải mất hơn 30 giờ để tạo ra một mẻ trà Ô Long, từ việc mang trà tươi về, làm héo, quay thơm, lên men, xào trà, vò, sấy sơ, tạo hình và làm khô. Việc quan trọng trong các giai đoạn phụ thuộc vào việc căn thời gian phù hợp cho từng công đoạn dựa trên các kỹ thuật máy móc tân tiến và kinh nghiệm lâu năm của người làm trà. Trà Ô Long là một loại trà có quy trình chế biến phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn và được kiểm soát một cách nghiêm ngặt từ khâu trồng trọt, thu hái đến chế biến.
Thiết bị và con người – 2 yếu tố không thể tách rời. Thiết bị phải đi theo yêu cầu công nghệ. Công nghệ của nó là công nghệ lên men thì các thiết bị đi theo để làm điều đó phải đáp ứng được trà dạng lên men. Còn con người, nếu như anh có thiết bị tốt mà không có con người làm chủ thiết bị và làm chủ công nghệ thì anh cũng không có cách nào làm ra trà ngon.
Nhiều sử sách ghi lại hình thức uống trà của người Việt khởi nguồn từ chùa chiền. Các nhà sư thường uống trà và tụng kinh thay cơm sáng hay những lúc chiều tà để giúp tỉnh được mộng trần và rửa được lòng tục. Trong kho tàng văn học nước nhà, trà là một chủ đề gợi nhiều cảm hứng cho các tao nhân mặc khách sáng tác nên những áng thơ thanh thoát, thiền vị.
Không phải ngẫu nhiên mà hình thức thiền trà ngày càng phát triển trong cuộc sống nhiều bộn bề và hối hả ngày nay. Giữa sự năng động, huyên náo, nhanh vội của đời sống công nghiệp, con người ta rất cần những giây phút lắng đọng, để não được nghỉ ngơi và tâm được an tĩnh. Sự hoà quyện giữa thiền và trà giúp con người dễ dàng đi vào sự định tâm, từ đó sống chậm lại và an trú trong hiện tại.
Uống trà đi – lời mời trà mộc mạc, chân thành, nhưng đó cũng là một công án thiền trứ danh mà người thưởng trà, yêu trà và ngẫm trà nào cũng biết đến.