Bài tập về nhà của chúng tôi chỉ đơn giản là sắp xếp mọi vật về đúng vị trí của nó, không giẫm chân lên bồn cỏ trong sân trường vì nó cũng biết đau, không quăng quật cặp sách, gìn giữ sách vở không quăn mép, không xé vở mỗi khi kiểm tra… vì sẽ làm tổn thương chúng, không kì thị với người khuyết tật hoặc người kém may mắn, không nói lời cay nghiệt với bạn bè, không tranh giành chen lấn nơi đông người, biết chia sẻ việc nhà… và một bài tập đặc biệt ai cũng phải làm sau tiết học đó là ôm bố, mẹ nói câu “Con yêu bố, mẹ! Con cảm ơn bố, mẹ đã vất vả vì con!”. Chúng tôi đã học và thực hành trong những nốt thăng trầm của cảm xúc. “Yêu và đồng cảm” thật sự là một văn bản có ý nghĩa với tất cả cô và trò chúng tôi.
Ở phần Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan niệm, học sinh được đọc một văn bản của Nhóm biên soạn “Điện thoại thông minh và người dùng, ai là ông chủ?”. Đây là một văn bản tham khảo nhưng các em học sinh đã rất hứng thú, cùng nhau “chiến đấu” để bảo vệ quan điểm của mình.
Tôi đã đưa đề tài này vào trong bài “Thảo luận về một vấn đề có ý kiến khác nhau”. Chúng tôi chia lớp thành hai nhóm, một nhóm cho rằng “điện thoại thông minh là ông chủ”, nhóm còn lại phải bảo vệ quan điểm “người dùng mới là ông chủ”.
Từ thực tiễn đời sống và những gì các em đang chứng kiến, nhóm “điện thoại thông minh là ông chủ” đã thắng thế khi đưa ra các luận điểm, bằng chứng thiết thực có tính thuyết phục cao. Chỉ với 4 luận điểm: Rẻ - Tiện - Nhanh - Thường xuyên với các dẫn chứng cụ thể:
Rẻ: Khi các hãng điện thoại cạnh tranh nhau về giá, ai cũng có khả năng mua sắm cho mình một chiếc điện thoại thông minh với số tiền vừa phải, giao dịch bằng điện thoại là thứ giao dịch rẻ nhất khi chỉ cần có mạng là đã có thể kết nối toàn cầu…
Tiện: Chỉ cần một cú chạm nhẹ là mọi thứ đều có thể xuất hiện trên tay của mỗi chúng ta, từ kiến thức Đông Tây Kim Cổ về KHTN, KHXH hay những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống như ăn gì, chơi gì đều có thể tìm kiếm từ điện thoại mà ra. Chúng ta có thể ngồi một chỗ mà tìm hiểu cả thế giới, có thể ngồi một chỗ mà mua bán, kiếm tiền, có thể kết nối với hàng ngàn người mà nếu không có điện thoại thông minh thì chúng ta không thể làm được. Thú vị nhất là khi không biết điều gì, cứ hỏi điện thoại thông minh sẽ biết…
Nhanh: Giao dịch bằng điện thoại là giao dịch nhanh nhất. Cập nhật thông tin, tìm kiếm thông tin, gửi thông tin, chia sẻ thông tin … điện thoại là thiết bị nhanh nhất…
Thường xuyên: Đi đâu cũng thấy người người cầm điện thoại, nghe điện thoại, sử dụng điện thoại. Đi chơi, gặp mặt, giờ ra chơi, đi ăn, đi cafe… đâu đâu cũng thấy hiện tượng nhiều người cầm điện thoại, đặc biệt là giới trẻ. Chúng ta cũng không ngoại lệ, mở mắt thứ ta tìm đầu tiên là điện thoại, có thể quên mọi thứ nhưng không bao giờ quên điện thoại, chúng ta cầm điện thoại, chơi điện thoại nhiều hơn thời gian dành cho bố mẹ và chia sẻ việc nhà…
Từ những lí do trên, các bạn đã kết luận “điện thoại thông minh là ông chủ”. Thành công của bài học là sau khi phân tích, các bạn đã tự đặt ra câu hỏi: “Làm thế nào để không trở thành nô lệ của điện thoại thông minh?”
Đã có nhiều ý kiến hay được đưa ra: Tập thói quen rời xa điện thoại, giả vờ “quên” điện thoại, đặt mục tiêu và giới hạn thời lượng sử dụng điện thoại, xoá các ứng dụng hấp dẫn trên điện thoại, đọc thật nhiều sách, tham gia nhiều vào các hoạt động xã hội, các hoạt động thể thao ngoài trời, khi giao lưu gặp mặt thì quy định không được mang theo điện thoại, nhờ bạn bè kiểm soát nhau thời gian dùng điện thoại, buổi tối nộp điện thoại về phòng bố mẹ, tự ra kỉ luật đối với bản thân nếu vi phạm thì sẽ bị phạt…
Chúng tôi đã có một tiết học rất hào hứng, thú vị với một chủ đề rất gần gũi, phổ biến, các em tự tin phát biểu suy nghĩ của mình vì đây là vấn đề của chính các em đang trải qua. Tôi đánh giá rất cao về văn bản này, ngoài minh chứng cho tính thuyết phục của một bài văn nghị luận thì nó là một văn bản có giá trị giáo dục cao.
Trong chương trình giáo dục mới, việc học văn không còn đơn thuần là bàn về một văn bản văn học, chúng ta hướng đến rèn kĩ năng nhiều hơn cho học sinh, chính vì vậy, nhóm biên soạn sách đã phân bố thêm thời gian cho các tiết rèn luyện các kĩ năng: Nghe, nói và viết.
Học sinh được tập luyện và hoàn thiện các kĩ năng như: Kĩ năng nắm bắt và chắt lọc thông tin, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng ứng dụng CNTT, tư duy phản biện… phù hợp với yêu cầu của thời đại mới.
Trong số các bài học đã thực hiện, chúng tôi nhận thấy học sinh hoạt động tích cực và có nhiều hứng thú với bài “Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận” hơn cả, có lẽ chính tính thiết thực của các văn bản nghị luận đã mang lại điều đó…
Việc tiếp cận chương trình sách giáo khoa mới vẫn còn nhiều khó khăn đối với cả giáo viên và học sinh, chúng tôi hi vọng có nhiều chuyên đề bổ ích và thiết thực để chúng tôi dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và tiếp nhận cái mới.