Theo GS.TS Nguyễn Quý Thanh, Nghị quyết 71- NQ/TW của Bộ Chính trị góp phần chấm dứt tranh luận về hội đồng trường và tự chủ đại học.
Qua nghiên cứu Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục, đào tạo (Nghị quyết 71), GS.TS Nguyễn Quý Thanh – Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) – phân tích, từ sau Luật Giáo dục đại học 2018, hội đồng trường được xác định là cơ quan quyền lực cao nhất, kỳ vọng sẽ mang lại quản trị hiện đại và giảm tập trung quyền lực vào hiệu trưởng.
Tuy nhiên, cơ chế này chưa hòa hợp với cấu trúc lãnh đạo trong trường công lập. Có tình huống Đảng ủy ra chủ trương phải làm cái gì đó, nhưng hội đồng trường biểu quyết không làm.
Hậu quả là chu trình ra quyết định bị kéo dài: ban giám hiệu – Đảng ủy – hội đồng trường – rồi lại vòng về ban giám hiệu. Một quyết định có khi vài ba tháng mới xử lý xong. Điều này không chỉ gây chậm trễ trong vận hành mà còn "làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt ở các trường công.
Theo GS.TS Nguyễn Quý Thanh, giải pháp lần này Nghị quyết đưa ra không phải quay về mô hình cũ, mà là nâng cấp: Bí thư kiêm Hiệu trưởng với quyền hạn được xác lập cụ thể, một số chức năng từng thuộc hội đồng trường được đưa về Đảng ủy, biến vai trò lãnh đạo từ "chủ trương chung" thành chỉ đạo sát sao từng quyết sách: "Lần này các chức năng của Đảng ủy sẽ được cập nhật, chỉ đạo cụ thể hơn, sâu hơn".
Ông cho rằng, thay đổi về cơ cấu quản trị chỉ là bước đầu, để vận hành trơn tru cần phải có cơ sở pháp lý tương thích: “Ba bộ luật – Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp – đều sẽ phải điều chỉnh.
Các quy định về hội đồng trường, vai trò Đảng ủy, cơ chế tự chủ và phân bổ ngân sách phải được cập nhật rõ ràng để nghị quyết có thể triển khai đồng bộ”. Đây là bước “luật hóa” cần thiết, biến tinh thần nghị quyết thành hành động nhất quán trong toàn hệ thống.
Từ nền tảng đó, GS.TS Nguyễn Quý Thanh cho rằng, cần tiếp tục bàn sâu câu chuyện tự chủ, bởi cơ chế tự chủ chỉ có thể vận hành hiệu quả khi khung quản trị đã được định hình rõ ràng.
Tự chủ đại học đã trở thành từ khóa quen thuộc suốt một thập kỷ, nhưng theo Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, cách hiểu lâu nay có vấn đề ngay từ gốc. Bản chất của tự chủ không phải là "cắt" ngân sách mà là đổi cách cấp ngân sách. Thay vì dự toán hằng năm, Nhà nước cần cấp một gói tài chính ổn định trong 3–5 năm. Trong khuôn khổ đó, các trường được tự quyết chi cho nhân sự, đầu tư và hoạt động học thuật, miễn là có cơ chế giải trình minh bạch.
Cách tiếp cận này của giai đoạn trước là biến tự chủ thành "tự lo", dẫn đến một lộ trình cắt ngân sách từng bước – mỗi năm giảm 10%, đến 2026 cắt toàn bộ. Điều này đẩy các trường vào vòng xoáy tăng học phí, mở thêm chương trình chất lượng cao để cân đối thu chi: Xu hướng tăng học phí quá nhanh và mạnh là tất yếu. Nhưng nó rất không hay trong giáo dục. Nó tạo ra bất bình đẳng, gánh nặng đè lên vai phụ huynh, nhiều gia đình phải chật vật mới lo cho con được học đại học.
Không chỉ vậy, cơ chế "đặt hàng" đào tạo – vốn kỳ vọng là lối thoát – cũng gặp nhiều vướng mắc. GS Thanh dẫn ví dụ Nghị định số 116/2020/NĐ-CP của Chính phủ “Quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm”, nhiều tỉnh, thành không ký đặt hàng vì lo rủi ro trách nhiệm khi "sản phẩm" chỉ xuất hiện sau bốn năm.
Hệ quả là chỉ tiêu đào tạo thấp, thiếu giáo viên cục bộ, đẩy điểm chuẩn sư phạm lên cao, "Bốn năm sau mới ra sản phẩm, không ai dám ký hợp đồng trăm tỷ mà phải chờ đến bốn năm mới nghiệm thu".
Theo GS Thanh, Nghị quyết 71 mở ra cơ hội để luật hóa cách cấp ngân sách, biến tự chủ thành "tự chủ có bảo đảm". Nhà nước vẫn đầu tư nhưng theo cơ chế đặt hàng chuẩn hóa, minh bạch, giảm rủi ro cho địa phương. Các trường được quyền tự quyết trong gói ngân sách đã cấp, đồng thời khuyến khích đa dạng nguồn thu (hợp tác quốc tế, nghiên cứu, dịch vụ) thay vì phụ thuộc tuyệt đối vào học phí. Học phí được điều chỉnh có lộ trình, tránh "sốc giá" và hạn chế bất bình đẳng.
"Nếu không cấp ngân sách ổn định, buộc trường phải co kéo từ học phí – hệ quả tất yếu là tăng học phí. Không có cách nào khác", GS Thanh nhấn mạnh và cho rằng, sẽ có hai tác động tích cực: chặn đà tăng học phí, giảm áp lực xã hội và bảo đảm cơ hội học tập công bằng; đồng thời giúp các trường ổn định chiến lược phát triển, tập trung nâng chất lượng thay vì phải chạy theo quy mô tuyển sinh để có thêm nguồn thu.
Vấn đề tài chính là "huyết mạch" quyết định sức khỏe của toàn hệ thống. GS Thanh chỉ rõ một thực tế đáng lo: ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học hiện chỉ khoảng 10.000 tỷ đồng, giảm mạnh so với mức 17–18 nghìn tỷ đồng những năm trước, trong khi số sinh viên đã lên tới gần 2 triệu, khi đó, bình quân mỗi sinh viên chỉ được đầu tư 13–14 triệu đồng/năm, đã là một con số thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực.
Nghị quyết 71 khẳng định rõ: không tiếp tục cắt giảm mà phải tăng ngân sách. Quan trọng hơn, nghị quyết đưa ra một điểm mới được GS Thanh đánh giá là "bước tiến tư duy": thành lập quỹ học bổng quốc gia. Quỹ này sẽ gom toàn bộ nguồn học bổng, hỗ trợ sinh viên vào một cơ chế độc lập, minh bạch, tách hẳn khỏi học phí.
"Học bổng phải có quỹ riêng, tách hẳn khỏi học phí. Con em đóng tiền là để học, không phải để trích ra làm học bổng cho người khác" - điều này chấm dứt tình trạng lâu nay khi các trường buộc phải trích 8% học phí của số đông để chi cho một số ít sinh viên nhận học bổng – một bất cập mà GS.TS Nguyễn Quý Thanh đã nhiều lần chỉ ra.
GS.TS Nguyễn Quý Thanh nhấn mạnh việc tái cấu trúc hệ thống đại học: sáp nhập những đầu mối nhỏ, giảm chồng chéo để tập trung nguồn lực. Nhưng ông cũng cảnh báo, không thể máy móc "giảm biên chế" trong giáo dục: đội ngũ tiến sĩ, phó giáo sư là tài sản được đào tạo lâu năm, nếu cắt bỏ sẽ làm chất lượng sụt giảm ngay lập tức.