Tuy nhiên, tháng 4-5/2023 việc cấp khí không đủ nhu cầu nâng công suất tối đa các nhà máy tại cùng khung giờ cần huy động cao (16h hôm trước đến 7h sáng hôm sau) khi điện mặt trời, gió không thể phát. Nguyên nhân là lưu lượng khí theo giờ tại khu vực Đông Nam Bộ không đáp ứng đủ nhu cầu do giới hạn điều kiện vận hành kỹ thuật hệ thống khai thác, vận chuyển và cung cấp khí.
Bên cạnh những vấn đề của EVN, việc cung ứng than, khí của PVN, TKV cũng được thanh tra nhắc đến. Cùng với đó, bản thân các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Công Thương cũng chưa làm tròn trách nhiệm giám sát, kiểm tra và đây cũng là một phần nguyên nhân để xảy ra tình trạng thiếu điện. “Trách nhiệm thuộc về Cục Điều tiết điện lực, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo; Cục Kỹ thuật an toàn và môi trường công nghiệp và Vụ Dầu khí, than”, kết luận thanh tra nêu rõ.
Bộ Công Thương cũng yêu cầu Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Cục Điều tiết điện lực, Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp, Vụ Dầu khí và Than căn cứ kết luận thanh tra, tổ chức kiểm điểm nghiêm túc, rút kinh nghiệm sâu sắc trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực được giao, tiến hành xử lý trách nhiệm đối với tập thể, cá nhân có sai phạm (nếu có).
Nhiều dự án nguồn điện và lưới điện chậm tiến độ kéo dài
Kết luận thanh tra cho rằng: Việc thực hiện dự án nguồn điện và lưới điện không đảm bảo tiến độ (theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã duyệt) thuộc trách nhiệm của EVN, các Ban Quản lý dự án điện 1, 2, 3, EVNNPT, GENCO3 và 5 Tổng công ty Điện lực trực thuộc EVN.
Đơn cử, với dự án nhiệt điện Quảng Trạch I, theo hợp đồng EPC, công suất tinh của mỗi tổ máy là 654,7MW (tương ứng với công suất thô của tổ máy là 701,5 MW, toàn nhà máy 1.403 MW), thời gian hoàn thành để bàn giao dự án vào năm 2025. Tuy nhiên, tính đến thời điểm thanh tra, dự án này đã chậm tiến độ 3 năm.
Với dự án nhà máy thủy điện (NMTĐ) Ialy mở rộng, công suất 360 MW, gồm 2 tổ máy. EVN đã quyết định đầu tư dự án tại Quyết định số 384/QĐ-EVN ngày 27/9/2019. Trong đó, tiến độ phát điện tổ máy số 1 là quý II/2024 và tổ máy 2 là quý III/2024.
Dự án đã khởi công tháng 6/2021, nhưng theo tính toán, dự án này sẽ chậm tiến độ khoảng 45 tháng so với quy hoạch điện VII điều chỉnh, chậm khoảng 12 tháng đến 24 tháng so với chủ trương đầu tư được phê duyệt.
Việc nhiều tổ máy nhiệt điện gặp sự cố kéo dài cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới cung ứng điện.
Còn dự án Nhà máy nhiệt điện Hòa Bình mở rộng có công suất 360MW, dự kiến cũng sẽ chậm tiến độ khoảng 45 tháng so với quy hoạch điện VII điều chỉnh, chậm khoảng 12 tháng đến 24 tháng so với chủ trương đầu tư được phê duyệt.
Dự án Ô Môn III, theo quy hoạch điện VII điều chỉnh, dự án dự kiến đưa vào vận hành năm 2020. Nhưng đến nay chỉ mới dừng ở mức chuẩn bị các bước đầu tư. Đoàn thanh tra chỉ ra lý do nằm ngoài khả năng kiểm soát của EVN, đó là tiến độ cấp khí cho các dự án nhà máy nhiệt điện trong Trung tâm điện lực Ô Môn bị chậm tiến độ so với kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Tương tự, với dự án Ô Môn IV, EVN đã hoàn thành các thủ tục chuẩn bị đầu tư để thực hiện dự án. Tuy nhiên, do tiến độ cấp khí của mỏ khí Lô B bị chậm tiến độ nên dự án bị chậm tiến độ theo quy hoạch VII điều chỉnh và Quyết định phê duyệt kế hoạch khai thác mỏ khí Lô B của Thủ tướng Chính phủ (mới đây, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã nhận đầu tư dự án nhiệt điện Ô Môn III và Ô Môn IV từ EVN - PV).
Với dự án Dung Quất I và dự án Dung Quất III, EVN đã hoàn thành các thủ tục chuẩn bị đầu tư để thực hiện dự án. Tuy nhiên, kết luận thanh tra cho rằng, do chưa xác định tiến độ của mỏ khí Cá Voi Xanh nên EVN chưa thể phê duyệt dự án đầu tư và triển khai các bước tiếp theo.
Dự án Nhà máy nhiệt điện Trị An mở rộng, đến thời điểm thanh tra, dự án chưa được Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLV) phê duyệt nên EVN chưa có cơ sở để triển khai đầu tư theo quy định. Dự án chậm tiến độ khoảng 1 năm so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh.
Kết luận thanh tra cũng chỉ ra, một số dự án truyền tải 500-220 kV do EVN trực tiếp đầu tư, thông qua các Ban Quản lý dự án điện 1, 2, 3 bị chậm tiến độ.
Như là, dự án đường dây 220kV Nậm Mô (Lào) - Tương Dương (đoạn trên lãnh thổ Việt Nam); dự án Trạm cắt 220kV Bờ Y và các đường dây 220kV đấu nối cụm Nhà máy nhiệt điện NamKong 1, 2, 3 (Lào) vào hệ thống điện Việt Nam.
Dự án Trạm cắt 220kV Đăk Oóc và các đường dây 220kV đấu nối cụm Nhà máy nhiệt điện Nam Emoun (Lào) vào Hệ thống điện Việt Nam; dự án mở rộng Trạm biến áp 220kV Phước Thái; dự án Trạm biến áp 220kV Vĩnh Hảo và đường dây 220kV nhánh rẽ đấu nối.
Nhiều dự án, công trình truyền tải (220-500kV) do EVNNPT đầu tư cũng chậm tiến độ, trong đó có: Đường dây 500 kV mạch 3; các công trình lưới điện phục vụ nhập khẩu điện từ Lào; các công trình phục vụ giải tỏa công suất thủy điện phía Bắc; phục vụ giải tỏa công suất nguồn điện năng lượng tái tạo; các dự án Đường dây 220 kV: Nghĩa Lộ - Trạm 500 kV Việt Trì, Huội Quảng - Nghĩa Lộ, Nha Trang - Tháp Chàm…
Theo kết luận thanh tra:“Việc thực hiện đầu tư của EVN và EVNNPT chưa đáp ứng tiến độ theo quy hoạch điện VII điều chỉnh được duyệt. Việc chậm tiến độ các dự án lưới điện truyền tải (đường dây và trạm biến áp) làm giảm độ an toàn, tin cậy và khả năng cung cấp điện hiện tại cũng như các năm giai đoạn 2023-2025”.