Nơi đất tựa nghiên mực sản sinh nhân tài anh tú

Trần Hoà | 13/04/2022, 15:46
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Có địa thế giống như một chiếc nghiên mực, đất học Hoằng Lộc (Hoằng Hoá – Thanh Hoá) nổi tiếng trong lịch sử khoa bảng với 12 vị đại khoa.

Người thứ 6 là Nguyễn Nhân Thiệm đỗ Hương cống (1573) sau đó vừa làm quan vừa tự học. Khoa thi năm Quý Mùi (1583) ông đỗ Hoàng giáp. Năm 1597, được cử làm phó sứ cùng Phùng Khắc Khoan sang nhà Minh cầu phong vua cho vua Lê. Trên đường về nước ông lâm bệnh và mất tại trạm Phù Dung. Vua nhà Minh thương tiếc cử sứ đoàn đến viếng, đề linh vị: Nam quốc sứ thần công linh vị.

hoang-loc-4.jpg

Chỉ trong vòng 438 năm, Hoằng Lộc đã có đến 12 người đỗ đại khoa (ảnh tư liệu).

Nguyễn Thứ con Thám hoa Nguyễn Sư Lộ, ông đỗ Hương cống năm 21 tuổi. Sau lại đỗ Đình nguyên Hoàng giáp, giữ chức Hàn lâm viện hiệu lý, chuyển Thị giảng, thăng Thái thường Tự khanh. Ông mất khi tuổi còn trẻ, 2 con trai đều đỗ Hương cống.

Nguyễn Lại đỗ Đình nguyên Hoàng giáp. Ông làm quan đến Công bộ hữu Thị lang, từng được cử sang sứ nhà Minh, sau chuyển sang Bồi tụng phủ chúa dạy Thế tử.

Nguyễn Ngọc Huyền và em là Nguyễn Ngọc Toản đều đỗ Hương cống năm 1702. Khoa thi Tân Sửu (1721) ông đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, sau lĩnh đốc trấn Cao Bằng. Khi vùng Cao - Lạng nổi loạn lần 2, ông được cử làm đốc trấn dẹp loạn. Khi trở về triều ông lâm bệnh nặng và mất tại nhiệm sở.

Lê Huy Du đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mùi (1785). Vừa nhậm chức thì quân Tây Sơn nhập thành Thăng Long. Khi Gia Long lên ngôi, 2 lần mời ông ra cộng tác nhưng không thành. Lần thứ ba, ông ra nhưng chỉ nhận giáo chức. Ông đã đào tạo rất nhiều sĩ tử thành tài.

Nguyễn Tôn Thố đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi (1835). Ông thường hộ giá vua Thiệu Trị, sau giữ chức Hàn lâm viện biên tri, làm phúc khảo kì thi hương trường thi Huế.

Vị đại khoa cuối cùng là Nguyễn Bá Nhạ - con trai tri huyện Yên Lạc Nguyễn Thận Tuyển. Kỳ thi khoa Quý Mão (1843) niên hiệu Thiệu Trị, ông đỗ Nhị giáp Tiến sĩ thứ nhất (Đình nguyên Hoàng giáp) năm 22 tuổi. Năm Thiệu Trị thứ 4 bổ nhiệm chức Tri phủ Hàm Thuận. Năm 1848, niên hiệu Tự Đức thứ 2, ông bị bệnh và mất tại sở nhiệm khi mới 27 tuổi. Vua Tự Đức thương tiếc có câu đối viếng: “Nhân sinh bách tuế vi kỳ, bán chi bán hân quân mệnh bạc. Niên thiếu Tam nguyên cập đệ kỳ cánh kỳ sử ngã tâm bi”.

hoang-loc-3.jpg

Đền thờ cụ Nguyễn Quỳnh – nguyên mẫu Trạng Quỳnh.

Nguyên mẫu Trạng Quỳnh

Ngoài 12 vị đại khoa, Hoằng Lộc còn là quê hương của danh sĩ Nguyễn Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại. Từ đó, dân gian hư cấu thêm và gọi ông là Trạng Quỳnh, mặc dù ông chỉ đỗ Hương cống.

Nguyễn Quỳnh sinh năm 1677, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, tài trí hơn người. Năm 14 tuổi văn tài đã khá, thi trường Huyện trúng cả 4 kỳ. Năm 18 tuổi (1694) Nguyễn Quỳnh theo cha ra Thăng Long, lúc này cha ông làm Giám sinh Quốc Tử Giám.

Năm Bính Tý (1696) ông đỗ Hương nguyên khi tròn 20 tuổi. Ông có sở trường thơ phú, có học vấn uyên thâm, tài năng ứng biến. Người đương thời đánh giá cao tài năng của ông và thường gọi ông là Quốc sư hay Trạng nguyên: Dân phong tước Trạng cho Quỳnh/ Chẳng cần khoa bảng, triều đình, đá bia/ Chẳng cần ông nọ, bà kia/ Tên ông thành ngọn giáo lia ngang trời.

Thời kỳ này, xã hội phong kiến khủng hoảng, nhân dân lầm than cực khổ. Quan chức đa số xa xỉ, chia bè kéo cánh, mưu lợi ích riêng, biến trường thi trở thành nơi vơ vét làm giàu. Nguyễn Quỳnh dù thông minh tài trí nhưng lận đận nơi trường ốc.

Dù là Học quan, nhưng lương thấp không đủ chăm mẹ, nuôi em, cuộc sống trở nên quẫn bách, đã thế còn bị giáng chức hạ lương. Việc giáng truất là do chúa Trịnh trực tiếp quyết định, khiến ông có những lời nói và hành động chống lại chúa.

Nguyễn Quỳnh qua đời năm 1748, thọ 72 tuổi để lại cho hậu thế một cuộc đời trào lộng cùng những trang thơ mẫu hình cho nhân vật Trạng Quỳnh.

Năm 1990, đền thờ Nguyễn Quỳnh tại Hoằng Lộc được nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia.

“Nguyễn Quỳnh là một người giỏi văn Nôm, thích hài hước, tôi không hề có ý đồng nhất Hương cống Nguyễn Quỳnh với Trạng Quỳnh dân gian. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, Cống Quỳnh hoàn toàn có đủ tư cách để trở thành khởi hình lịch sử của Trạng Quỳnh dân gian”.

Cố GS Hà Văn Tấn

Bài liên quan
Tam Sơn "địa linh nhân kiệt" vang danh khoa bảng
Với 22 tiến sĩ, Tam Sơn xứng đáng là đất "địa linh nhân kiệt" vang danh khoa bảng. Không chỉ vậy, Tam Sơn cũng là ngôi làng duy nhất đủ cả Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Nơi đất tựa nghiên mực sản sinh nhân tài anh tú