Ông Phan Văn Hớn (Phan Công Hớn) sinh năm 1830 tại làng Tân Thới Nhứt, Tổng Dương Hòa, huyện Bình Long, phủ Tân Bình (nay là xã Bà Điểm, TPHCM).

Từng dạy chữ Nho, ông Phan Văn Hớn sớm bộc lộ tinh thần yêu nước và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu với thành phần là những nông dân, đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Lễ đền thờ Phan Văn Hớn bao gồm các nghi lễ trang nghiêm như: dâng hương, dâng lễ vật, tế lễ và diễn xướng tuồng cổ. Đoàn rước lễ bắt đầu từ đình Long Hưng - nơi thờ bà Đô Huê, vợ ông Phan Văn Hớn đến đền thờ ông. Đoàn rước gồm có cờ, trống, lộng (kiệu), long đình... Các nghi lễ được thực hiện bởi các bô lão trong làng, với mong muốn cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, xua đuổi tà ma, bệnh dịch.
Theo cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Hóc Môn”, ông Phan Văn Hớn (còn gọi là Phan Công Hớn) sinh năm 1830 tại làng Tân Thới Nhứt, Tổng Dương Hòa, huyện Bình Long, phủ Tân Bình (nay là xã Bà Điểm, TPHCM). Ông sinh ra trong một gia đình Nho giáo, trên mảnh đất giàu truyền thống yêu nước - quê hương Hóc Môn, nơi có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm.
Dù gia cảnh nghèo khó, ông vẫn theo học chữ Nho từ nhỏ, tinh thông kinh sử, được dân làng kính trọng gọi là “ông đồ Hớn”, và từng mở lớp dạy chữ Nho tại nhà, truyền dạy đạo lý, nhân nghĩa cho con cháu và trẻ trong vùng. Tinh thần trọng chữ nghĩa của ông lan tỏa trong cộng đồng, góp phần hình thành truyền thống hiếu học ở Tân Thới - Bà Điểm.
Là một nông dân văn hay, võ giỏi, nhiều mưu trí, Phan Văn Hớn có tấm lòng hào hiệp, ngay thẳng và yêu thương đồng bào, luôn bênh vực dân nên được sự cảm mến của nhân dân. Chính nhờ nền tảng Nho học, ông sớm hình thành tinh thần yêu nước, ghét cường quyền. Ngược lại, bọn tay sai và thực dân Pháp vô cùng căm ghét ông.
Năm 1862, Pháp chiếm Gia Định. Khi đó, ông Hớn 32 tuổi, đã cùng nhân dân đứng lên chống lại ách thực dân. Cũng trong thời gian này, các cuộc khởi nghĩa khác do Trương Định, Trương Quyền, Nguyễn Ảnh Thủ lãnh đạo đã tạo nên khí thế khởi nghĩa mạnh mẽ của nhân sĩ yêu nước, nông dân Nam Bộ khiến thực dân Pháp lo sợ.
Để đàn áp phong trào khởi nghĩa, thực dân Pháp đưa Đốc phủ sứ Trần Tử Ca làm Tri huyện Bình Long. Từ một cai phó tổng, nhờ thành tích chỉ điểm cho giặc Pháp giết hại nhiều người yêu nước, hắn được đưa lên làm Đốc phủ. Trần Tử Ca gây ra nhiều tội ác với nhân dân như áp bức, bóc lột, độc quyền thu mua, vận chuyển, giết người, đắm những người yêu nước trong bể máu.
Năm 1879, Trần Tử Ca vu khống ông Phan Văn Hớn âm mưu làm loạn, bắt ông giao cho thực dân Pháp, đày ra Côn Đảo với án tù 5 năm. Khi mãn hạn tù, ông trở về quê nhà làng Tân Thới Nhứt. Chính quyền buộc ông phải thường xuyên đến trình diện tên Đốc phủ sứ.
Thời gian này, ông Phan Văn Hớn liên lạc với những người yêu nước và tìm được những người đáng tin cậy để tổ chức khởi nghĩa chống thực dân. Để che mắt địch, ông tổ chức hai trường gà ở Ngã tư An Sương và làng Tân Thới Nhứt, đường ra Ngã tư Trung Chánh. Thông qua vỏ bọc trường gà, ông liên hệ với những người yêu nước như ông Nguyễn Văn Quá (làng Mỹ Hạnh, Đức Hòa), ông Phan Văn Võ (cai Võ), ông Phạm Văn Hồ, ông Nguyễn Kế, thầy Trang… là những người nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa.
Sau thời gian chuẩn bị lực lượng, tập hợp quần chúng, nhân dân rèn vũ khí, tích trữ lương thực, ông quyết định thành lập Ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa gồm: ông Phan Văn Hớn, Tổng lãnh binh; ông Nguyễn Văn Quá, Chánh lãnh binh; ông Phạm Văn Hồ, Phó lãnh binh; ông Phan Văn Võ, nội ứng trong Dinh quận.


Cuộc khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu diễn ra ngày 9/2/1885 (nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Giáp Thân 1884), với tên gọi Trận Thập Bát Phù Viên. Nghĩa quân được chia thành nhiều cánh. Cánh quân tiến về Sài Gòn do ông Nguyễn Văn Bường chỉ huy, trên đường đi bị lộ nên bị địch vây bắt.
Cánh quân do ông Phan Văn Hớn và ông Nguyễn Văn Quá chỉ huy tiến thẳng vào Dinh quận Bình Long (Hóc Môn). Tên Đốc phủ và thuộc hạ rút lên lầu chống cự. Nghĩa quân dùng rơm và dây cây đậu phộng khô có sẵn trong dinh chất xung quanh và đốt lửa. Tên Trần Tử Ca chạy ra ngoài tìm đường trốn thoát, bị nông dân bắt giữ và giao cho nghĩa quân. Vợ Trần Tử Ca bị chết cháy.
Nghĩa quân chém đầu tên tay sai của Pháp ngay trước Dinh quận. Mùa Xuân năm ấy, người dân vui mừng trước thắng lợi của cuộc khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu tại Hóc Môn - Bà Điểm, nên có câu ca dao: “Mừng xuân có pháo có nêu; Có đầu Đốc phủ đem bêu cột đèn”.
Cuộc khởi nghĩa chưa kịp lan rộng, thực dân Pháp đã tập trung lực lượng đàn áp. Sau khởi nghĩa, ông Phan Văn Hớn rút về Gò Mây (Vĩnh Lộc), ông Nguyễn Văn Quá về làng Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Không bắt được hai ông, chúng thực hiện âm mưu thâm độc: bắt người thân trong gia đình hai ông và nhiều dân thường tại làng Tân Thới Nhứt để giam cầm, tra khảo.
Vì quá yêu nước, thương dân, ông Hớn và ông Quá tự ra trình diện giặc Pháp để cứu người thân và dân lành. Ngày 31/8/1885, Tòa án binh Gia Định của giặc Pháp mở phiên tòa xử những người lãnh đạo và tham gia cuộc khởi nghĩa, kéo dài đến ngày 13/9/1885.
Kết quả, giặc Pháp xử 14 án tử hình (trong đó có ông Phan Văn Hớn và ông Nguyễn Văn Quá); 3 án khổ sai chung thân; 2 án tù đày biệt xứ; 16 án 15 năm khổ sai; 1 án 10 năm tù; 1 án 5 năm tù. Chúng truyền lệnh hành hình tại một số điểm ở Bình Long (Hóc Môn).
Theo các nhà sử học, cuộc khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống giặc ngoại xâm tiêu biểu của nhân dân Hóc Môn - Bà Điểm. Đây là điểm son trong lịch sử, nêu cao tấm lòng yêu nước, thương dân và sự hy sinh anh dũng của hai ông Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá. Các ông mãi là tấm gương sáng cho thế hệ hôm nay và mai sau học tập, noi theo.

Sau khi hai ông Nguyễn Văn Quá và Phan Văn Hớn hy sinh, thân tộc và nhân dân làng Mỹ Hạnh, Đức Hòa đã đưa ông Nguyễn Văn Quá về an táng tại quê nhà và lập đền thờ tại xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (nay thuộc tỉnh Tây Ninh).
Với ông Phan Văn Hớn, gia đình và nhân dân đưa thi hài ông về an táng tại quê nhà làng Tân Thới Nhứt, nay là ấp Bắc Lân 2, xã Bà Điểm (TPHCM). Mộ ông được trùng tu vào năm 1959 với sự góp sức của con cháu trong gia đình. Trên bia mộ ghi: Vị thần Phan Công Hớn - từ trần ngày 30/3/1886 (nhằm ngày 25/2 Âm lịch năm Bính Tuất). Bên cạnh mộ ông là mộ bà. Ngôi đền thờ ông Phan Văn Hớn được xây bằng gạch, mái ngói cao ráo, khang trang cho đến ngày nay. Hàng cột mặt tiền đền thờ gồm 4 trụ cột, mỗi trụ chạm khắc một câu liễn song song, tạo thành hai câu đối:
Nhớ công đức Tổ tiên gầy dựng nước; Rạng cơ đồ con cháu đắp bồi sau
Vì nước hy sinh gan liệt sĩ; Thương nòi chiến tử nghĩa anh hùng.
Bên trong chánh điện, bài vị thờ ông Phan Văn Hớn uy nghi như một vị thần linh hộ quốc, cứu dân. Tả hữu hai bên cũng thiết kế hương án vọng bái, chiêm ngưỡng thành kính. Kế thừa truyền thống cha ông, trong giai đoạn từ năm 1936 đến thời kỳ Nam Kỳ khởi nghĩa, 18 Thôn Vườn Trầu đã che chở, nuôi giấu nhiều cán bộ Trung ương về đây hoạt động, được sử sách ghi nhận như: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân cùng nhiều lãnh đạo cấp cao khác.
Ngày 31/12/2003, UBND TPHCM ban hành quyết định xếp hạng đền thờ ông Phan Văn Hớn là di tích lịch sử cấp thành phố. Hằng năm, vào ngày 24 và 25/2 Âm lịch, lãnh đạo chính quyền và thân tộc của hai ông Phan Văn Hớn và Nguyễn Văn Quá cùng tổ chức lễ giỗ và ôn lại truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của hai ông trong cuộc khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu năm 1885.

Năm 2013, Lễ đền thờ Phan Văn Hớn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đây là sự ghi nhận xứng đáng đối với một nghi lễ truyền thống mang giá trị lịch sử, văn hóa to lớn, góp phần bồi đắp thêm truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tại đền thờ ông, nhiều thế hệ trẻ là học sinh, sinh viên đã đến thắp hương tưởng nhớ, đọc sách, nghe các nhà sử học giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của ông Phan Văn Hớn. Đây là hoạt động nhằm giáo dục giá trị lịch sử, văn hóa, tinh thần yêu nước, thương dân đến các thế hệ trẻ.
Tên của ông Phan Văn Hớn được đặt cho đường phố, trường học tại TPHCM nhằm tưởng nhớ, ghi ơn những công lao của ông trong giai đoạn đầu chống thực dân Pháp, góp phần vào công cuộc kháng chiến sau này ở Nam Bộ.
Theo các nhà nghiên cứu, địa danh 18 Thôn Vườn Trầu gắn liền với sự hình thành và phát triển của Sài Gòn - TPHCM suốt 300 năm qua, bắt nguồn từ quá trình di dân đầu thế kỷ XVII. Một số lưu dân từ miền Bắc, miền Trung do không cam chịu sự thống trị hà khắc của phong kiến triều Trịnh – Nguyễn phân tranh đã rời bỏ quê hương vào Nam sinh cơ lập nghiệp. Từ năm 1698 đến 1731, nông dân nơi đây lập ra 6 thôn đầu tiên. Từ đó đến năm 1802, phát triển thêm 12 thôn. Người dân nơi đây nổi tiếng với nghề trồng trầu cau, trở thành vùng sản xuất trầu cau lớn nhất Nam Bộ, từng được mệnh danh là “xứ sở vườn trầu” trong quá khứ.