Giáo dục

Phát triển nhân lực công nghệ cao: Chọn lĩnh vực tiềm năng và lợi thế cạnh tranh

27/04/2025 07:26

Các lĩnh vực công nghiệp chiến lược nền tảng như vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học… đang phát triển mạnh mẽ.

Trong bối cảnh này, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cho rằng, cần lựa chọn lĩnh vực công nghệ chiến lược mà chúng ta có tiềm năng, lợi thế cạnh tranh để tập trung phát triển.

Lựa chọn công nghệ chiến lược

- Thưa Thứ trưởng, chúng ta đang ở đâu trong cuộc đua công nghệ cao?

Mỗi lĩnh vực công nghệ cao cần nguồn nhân lực được đào tạo từ nhiều ngành khác nhau, chủ yếu từ trình độ cao đẳng trở lên. Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới 2045” tập trung vào nguồn nhân lực STEM có trình độ đại học trở lên, là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, nhà khoa học, nghiên cứu viên, kỹ sư và chuyên gia công nghệ - lực lượng nòng cốt của đội ngũ nhân lực công nghệ cao.

- Các nước tiên tiến trên thế giới đã phát triển công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn theo chiến lược lâu dài. Trong đó, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Âu phát triển công nghệ cao tương ứng với trình độ khoa học công nghệ của họ. Chúng ta đi sau và còn khoảng cách xa so với những nước trên về trình độ khoa học công nghệ, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao.

Trong bối cảnh đó, tôi cho rằng, chúng ta cần lựa chọn lĩnh vực công nghệ mà Việt Nam có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh, đồng thời cần tập trung đầu tư phát triển đột phá. Qua đó, có thể bắt kịp thế giới ở một số lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn và công nghệ sinh học.

- Đi sau và còn khoảng cách xa so với nhiều nước về trình độ khoa học công nghệ, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao, chúng ta sẽ phải đối diện với những thách thức nào, thưa Thứ trưởng?

- Với xu thế toàn cầu hóa nguồn nhân lực, nhất là khi nhân lực tài năng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn và công nghệ sinh học ngày càng thiếu hụt, các cường quốc đều có những chiến lược rõ ràng để cạnh tranh và thu hút tài năng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhân tài có thể di chuyển khắp các nước. Vì thế có xu hướng các nước mạnh về công nghệ sẽ thu hút được nhiều nhân tài hơn để phát triển. Đây cũng là thách thức lớn với chúng ta.

Thứ hai là thách thức về nền tảng khoa học công nghệ, khi các nước phát triển có nền khoa học công nghệ vững chắc và lịch sử phát triển các lĩnh vực công nghệ nền tảng từ lâu, cùng sự hậu thuẫn của các tập đoàn công nghệ lớn. Do đó, rất khó để chúng ta bắt kịp nếu không có chiến lược, hành động đúng đắn, đúng thời điểm và mang tính đột phá. Ngoài ra, đầu tư quy mô lớn cho phát triển nguồn nhân lực để phát triển công nghệ cao cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam.

Để vượt qua thách thức nêu trên, tôi cho rằng, cần lựa chọn các lĩnh vực công nghệ mang tầm chiến lược quốc gia mà chúng ta có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh để đầu tư phát triển. Theo đó, một số lĩnh vực mà Việt Nam có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh là: Toán học và một số lĩnh vực/ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ trọng điểm (ngành STEM).

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu về khoa học, công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ và khốc liệt, việc lựa chọn đúng các công nghệ chiến lược để tập trung đầu tư phát triển là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho Việt Nam cũng như bất kỳ quốc gia nào.

phat-trien-nguon-nhan-luc-cong-nghe-cao-1.jpg
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn. Ảnh: Trần Hiệp

Những vấn đề căn cốt

- Dự thảo Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới 2045” (Đề án) nêu rõ sứ mệnh mục tiêu để phát triển nguồn nhân lực theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. Thứ trưởng có thể cho biết, quan điểm khi xây dựng Đề án này?

- Trước hết, phải khẳng định, việc xây dựng Đề án là yêu cầu cấp thiết nhằm phân tích, đánh giá khách quan thực trạng và nhu cầu; từ đó xác định rõ quan điểm, mục tiêu, các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để thúc đẩy đào tạo nhân lực phục vụ cho sự phát triển các lĩnh vực công nghệ chiến lược mà Việt Nam lựa chọn.

Đồng thời, Đề án là cơ sở để các bộ ngành, địa phương huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tài năng đáp ứng nhu cầu phát triển các lĩnh vực công nghệ cao nói chung và một số lĩnh vực công nghệ chiến lược nói riêng. Qua đó, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trước những thách thức và cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Do vậy, quan điểm khi xây dựng Đề án được tập trung vào năm vấn đề trọng tâm:

Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, cần các chính sách đột phá, cơ chế đặc thù, nguồn lực đầu tư xứng tầm, giải pháp cấp bách, lâu dài và lộ trình thực hiện phù hợp.

Thứ hai, Nhà nước giữ vai trò kiến tạo và điều phối, cung cấp nguồn lực chủ đạo để đầu tư, hỗ trợ đào tạo các lĩnh vực khoa học cơ bản, đào tạo tiến sĩ và nghiên cứu chuyên sâu phục vụ phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược; huy động tối đa sự tham gia, đóng góp của doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Thứ ba, một mặt tăng số lượng và nâng cao chất lượng đào tạo các ngành STEM nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về cơ cấu nhân lực của các lĩnh vực công nghệ cao trên diện rộng; đồng thời tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân tài trong các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ then chốt, trực tiếp phục vụ phát triển các lĩnh vực công nghệ chiến lược.

Thứ tư, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ phát triển công nghệ cao phải gắn với tăng cường năng lực đào tạo, thu hút nhân tài, thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư cho phát triển công nghệ cao, đặc biệt là thu hút các tập đoàn công nghệ lớn đầu tư xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.

Thứ năm, đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế với các cơ sở giáo dục uy tín và doanh nghiệp công nghệ trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực phục vụ phát triển lĩnh vực công nghệ then chốt, mới nổi, phù hợp với trọng tâm ưu tiên trong từng giai đoạn của Việt Nam.

phat-trien-nguon-nhan-luc-cong-nghe-cao-3.jpg
Giờ thực hành của sinh viên Trường Đại học Thăng Long (Hà Nội). Ảnh: NTCC

- Có khó khăn nào trong việc xác định mục tiêu và những đặc trưng của Đề án trên, thưa Thứ trưởng?

- Với yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, Đề án xác định mục tiêu tổng quan là nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành STEM có trình độ đại học, kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ làm lực lượng nòng cốt của đội ngũ nhân lực công nghệ cao; trong đó đặc biệt chú trọng đội ngũ nhân lực tài năng STEM phục vụ phát triển một số lĩnh vực công nghệ chiến lược. Việc xác định rõ phạm vi của Đề án là cần thiết để đảm bảo tính khả thi, tập trung và hiệu quả.

Phạm vi lĩnh vực của Đề án bao quát nguồn nhân lực STEM chất lượng cao phục vụ phát triển các lĩnh vực công nghệ cao nói chung, trong đó tập trung sâu hơn vào một số lĩnh vực công nghệ chiến lược cho chuyển đổi số, chuyển đổi xanh như công nghệ thông tin và truyền thông, vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học, vật liệu tiên tiến và năng lượng xanh.

Một vấn đề khác đặt ra đối với Đề án là xác định phạm vi tác động. Bởi khi nói đến phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao sẽ bao gồm thu hút, tuyển dụng, chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng… Nghĩa là sẽ có nhiều việc phải làm. Vì thế, Đề án khu trú vào việc đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo bổ sung.

Bên cạnh đó, một trong những câu hỏi đầu tiên đặt ra là nhu cầu thị trường lao động thế nào? Đây là vấn đề mà ngay cả các nước phát triển cũng khó dự đoán chính xác nhu cầu nhân lực các ngành nghề trong dài hạn nhất là khi công nghệ ngày càng nhanh chóng thay đổi.

Vì vậy, cách tiếp cận của Đề án là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực STEM trên diện rộng. Bởi, bất cứ công nghệ cao nào cũng cần nền tảng kiến thức của các ngành STEM. Khi sinh viên tốt nghiệp những ngành có thể tham gia vào nhiều lĩnh vực công nghệ sau một thời gian làm việc và được đào tạo bổ sung.

Cùng với đó, Đề án sẽ tập trung hỗ trợ phát triển 200 chương trình đào tạo tài năng trình độ sau đại học các ngành đào tạo STEM trọng điểm, cung cấp lực lượng nòng cốt cho việc tham gia phát triển và làm chủ công nghệ chiến lược trong dài hạn. Số lượng đào tạo tài năng không nhiều nhưng thực sự tinh hoa và được Nhà nước hỗ trợ tương xứng để thu hút người có tài năng thực sự.

phat-trien-nguon-nhan-luc-cong-nghe-cao-4.jpg
Giờ học trên phòng máy tính của sinh viên Trường Đại học Giao thông vận tải. Ảnh: TG

Cần giải pháp đột phá

- Thứ trưởng nhìn nhận như thế nào về vai trò của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao như đã đề cập ở trên?

- Vai trò của doanh nghiệp rất quan trọng, tuy nhiên sự hợp tác của doanh nghiệp trong nước vào các lĩnh vực công nghệ cao còn hạn chế. Thực tiễn phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở các nước phát triển cho thấy, doanh nghiệp vừa là động lực vừa là nguồn lực cho sự phát triển. Động lực là phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nhân lực phần lớn xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, sản xuất và sáng tạo của doanh nghiệp.

Còn nguồn lực ở chỗ, doanh nghiệp là nơi hỗ trợ các trường đại học, viện nghiên cứu trong thiết kế, đổi mới chương trình đào tạo, cung cấp đội ngũ chuyên gia, cung cấp trang thiết bị, phòng thí nghiệm thực hành đào tạo và nghiên cứu, hỗ trợ và tiếp nhận người học tham gia thực tập, kiến tập…

Do đó, một trong các giải pháp trọng tâm của Đề án là hoàn thiện quy định về ưu đãi thuế và tín dụng cho các hoạt động đầu tư, tài trợ và hợp tác đào tạo, nghiên cứu trong các lĩnh vực công nghệ cao; chính sách khuyến khích doanh nghiệp hỗ trợ thực tập, học bổng và trả nợ vốn vay cho người tốt nghiệp được tuyển dụng.

Đồng thời, đầu tư xây dựng một số trung tâm đào tạo, nghiên cứu xuất sắc về các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược theo hình thức hợp tác công - tư, có sự tham gia của các tập đoàn công nghệ lớn, doanh nghiệp sử dụng nhân lực và công ty cung cấp dịch vụ đào tạo công nghệ chuyên sâu.

- Vậy theo Thứ trưởng, Việt Nam có thể vận dụng bài học kinh nghiệm từ việc triển khai một số đề án của Chính phủ về đào tạo, thu hút nhân lực chất lượng trong lĩnh vực công nghệ cao?

- Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án 322 về đào tạo cán bộ, khoa học kỹ thuật tại cơ sở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước. Năm 2010, Chính phủ có Đề án 911 về đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010 - 2020. Hiện, chúng ta có Đề án 89 về nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030.

Các đề án trên đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đóng góp vào việc nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ. Tuy nhiên, có một số chính sách cần điều chỉnh.

Một là, xác định rõ ưu tiên hỗ trợ nguồn lực cho đào tạo giảng viên, chuyên gia các ngành STEM trọng điểm, nhất là ở trình độ tiến sĩ nhằm phục vụ cho việc phát triển các lĩnh vực công nghệ chiến lược bởi chúng ta không thể và không nên dàn trải nguồn lực đầu tư nhân lực cho các ngành.

Hai là, việc lựa chọn các trường tham gia đào tạo chương trình tài năng cần căn cứ vào năng lực thực tế theo lĩnh vực/ngành mà nhà trường đăng ký, có sự cạnh tranh nhất định để có thể nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước khi tham gia Đề án.

Ba là, cần sự tham gia, hợp tác thực chất của doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực chất lượng cao, gắn với nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.

Bốn là, lấy người học làm trung tâm của chính sách, chính sách phải đảm bảo cho người học có động lực để học tập, nghiên cứu và đóng góp cho sự phát triển của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Do đó, cần hệ sinh thái, hệ thống chính sách đồng bộ từ chính sách tài chính hỗ trợ người học, đến môi trường học tập, làm việc và được tham gia sáng tạo, cống hiến cho khoa học.

- Thứ trưởng có đề xuất kiến nghị gì với các bộ, ngành trong việc triển khai Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao?

- Bộ GD&ĐT là cơ quan được giao xây dựng dự thảo Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới 2045” để trình Thủ tướng phê duyệt. Tuy nhiên, để Đề án triển khai thành công cần có sự tham gia, phối hợp tích cực và hiệu quả của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở giáo dục đại học.

Có thể thấy ngay những chính sách về tài chính, đầu tư rất quan trọng cần được Bộ Tài chính quan tâm sửa đổi, bổ sung trong năm 2025; các chính sách, cơ chế đột phá về nghiên cứu khoa học và thu hút nhân tài, nhà khoa học đầu ngành sẽ do Bộ Khoa học và Công nghệ tham mưu đề xuất ban hành.

- Vậy theo Thứ trưởng, chúng ta cần giải pháp đột phá gì để triển khai phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao?

- Điểm nghẽn lớn nhất của Đề án này cũng như nhiều đề án về phát triển nhân lực khác đó là sự đầu tư của Nhà nước còn thấp; cơ chế tài chính phức tạp. Do đó, giải pháp đột phá là tập trung đầu tư mạnh, xứng tầm, với những cơ chế tài chính thuận lợi để các cơ sở giáo dục đại học phát huy được tiềm năng, trở thành các trung tâm đào tạo xuất sắc, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và đặt chất lượng thay vì số lượng lên hàng đầu.

Còn những giải pháp khác cần thiết nhưng đều đặt ra điều kiện. Chúng ta muốn hợp tác với doanh nghiệp; đào tạo, thu hút giảng viên, chuyên gia nước ngoài; hỗ trợ người học; đổi mới chương trình đào tạo; tăng cường cơ sở vật chất… thì phải có nguồn lực. Với công nghệ chiến lược và nhiệm vụ chiến lược đào tạo nguồn nhân lực này thì không chỉ nguồn lực từ xã hội, mà đầu tư của Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo và đi trước một bước, bởi đây là chiến lược quốc gia.

phat-trien-nguon-nhan-luc-cong-nghe-cao-2.jpg
Sinh viên Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội thực hành trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NTCC

Chú trọng đào tạo nhân lực lĩnh vực STEM

- Thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW, ngành Giáo dục cần triển khai những công việc gì để hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết đề ra, trong đó có yếu tố liên quan đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao các ngành kỹ thuật - công nghệ?

- Có thể nói, không quốc gia nào mạnh về khoa học, công nghệ mà lại không có các trường đại học danh tiếng và hệ thống giáo dục phổ thông tốt. Ngược lại, không quốc gia nào có hệ thống giáo dục phổ thông tốt và nhiều trường đại học danh tiếng mà lại không mạnh về khoa học, công nghệ.

Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ là nơi đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, mà còn đóng vai trò là tổ chức khoa học và công nghệ quan trọng, nơi tập trung phần lớn đội ngũ nhà khoa học của đất nước.

Những quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra trong Nghị quyết 57-NQ/TW (Nghị quyết 57), có ý nghĩa quan trọng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới hệ thống giáo dục, đào tạo nói chung và cơ sở giáo dục đại học nói riêng. Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý ở cơ sở giáo dục đại học rất phấn khởi, đặt niềm tin và kỳ vọng nhiều vào sự phát triển bứt phá của hệ thống giáo dục đại học từ triển khai Nghị quyết 57 trong giai đoạn tới đây.

Thời gian qua, Bộ GD&ĐT cùng toàn ngành Giáo dục đã chuẩn bị những tiền đề quan trọng cho phát triển hệ thống giáo dục đại học, chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, nhân tài trong các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán (STEM). Chính phủ cũng ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 57, trong đó giao Bộ GD&ĐT một số nhiệm vụ lớn cũng như xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể.

Trước đó, Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp bán dẫn và Chương trình phát triển nguồn nhân lực cho ngành Công nghiệp bán dẫn được Thủ tướng phê duyệt. Mới đây, Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bộ GD&ĐT cũng hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới 2045” và một số đề án đầu tư, nâng cấp cơ sở giáo dục đại học trọng điểm về kỹ thuật công nghệ.

Các chương trình, chiến lược, quy hoạch và đề án nêu trên xác định nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể mà toàn ngành phải triển khai thời gian tới, liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực STEM.

Theo đó, toàn ngành Giáo dục phải nỗ lực làm nhiều việc để ngày càng có nhiều người giỏi theo học và hành nghề trong các lĩnh vực STEM, đồng thời ngày càng nhiều giảng viên giỏi giảng dạy và nghiên cứu trong các lĩnh vực STEM, nhiều trường đại học tốt, có danh tiếng tầm cỡ khu vực, thế giới về các lĩnh vực STEM.

- Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!

Bên cạnh Bộ GD&ĐT, Đề án “Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới 2045” có sự tham gia, vào cuộc của nhiều bộ, ngành… Chúng tôi mong các bộ, ngành tiếp tục đóng góp ý kiến để cùng hoàn thiện Đề án. - Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/phat-trien-nhan-luc-cong-nghe-cao-chon-linh-vuc-tiem-nang-va-loi-the-canh-tranh-post728723.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/phat-trien-nhan-luc-cong-nghe-cao-chon-linh-vuc-tiem-nang-va-loi-the-canh-tranh-post728723.html
Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Phát triển nhân lực công nghệ cao: Chọn lĩnh vực tiềm năng và lợi thế cạnh tranh