Kết quả, trong tổng số 373 ĐB tham gia, có 255 ĐB tán thành phương án 1 (chiếm 68,36% số ĐB tham gia biểu quyết và bằng 51,62% tổng số ĐB); 118 ĐB tán thành phương án 2 (chiếm 31,64% số ĐB tham gia biểu quyết và bằng 23,89% tổng số ĐB).
Ủy ban Thường vụ QH nhận thấy đại đa số các ĐBQH đều đồng tình với việc có Quỹ phòng thủ dân sự, do đó việc thành lập quỹ này là cần thiết.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến ĐB, QH giao Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập, quản lý, sử dụng quỹ phòng thủ dân sự; việc điều tiết giữa quỹ phòng thủ dân sự và các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách có liên quan đến hoạt động ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố, thảm họa.
Về cấp độ phòng thủ dân sự, có ý kiến ĐB đề nghị làm rõ tính chất nghiêm trọng của tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh so với sự cố, thảm họa ở các cấp độ và nghiên cứu quy định cho chặt chẽ. Ủy ban Thường vụ QH giải trình, tính chất nghiêm trọng của tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh đã được quy định trong Pháp lệnh tình trạng khẩn cấp, Luật Quốc phòng.
“Các biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này” - Ủy ban Thường vụ QH nêu. Cơ quan này khẳng định các biện pháp phòng thủ dân sự quy định tại luật này không thay thế cho các biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, tình trạng chiến tranh mà tạo nên tổng thể các biện pháp cần thiết để phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả của sự cố, thảm họa, bảo vệ nhân dân, nền kinh tế khi xảy ra thảm họa, sự cố.
Luật được QH thông qua, phòng thủ dân sự có ba cấp độ. Trong đó, Chủ tịch UBND cấp huyện ban bố, bãi bỏ phòng thủ dân sự cấp độ 1 trên địa bàn quản lý; Chủ tịch UBND cấp tỉnh ban bố, bãi bỏ phòng thủ dân sự cấp độ 2 trên địa bàn quản lý; Thủ tướng ban bố, bãi bỏ phòng thủ dân sự cấp độ 3.
Đáng chú ý, Điều 34 của luật quy định rõ cơ quan chỉ đạo quốc gia, cơ quan chỉ huy phòng thủ dân sự. Theo đó, Bộ Quốc phòng là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia. Thành viên Ban chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia có trách nhiệm chủ trì tham mưu cho Ban chỉ đạo trong tổ chức, chỉ đạo, điều hành về phòng thủ dân sự trong lĩnh vực quản lý theo quy định của pháp luật.
Điều 35 của luật cũng quy định lực lượng phòng thủ dân sự bao gồm lực lượng nòng cốt và lực lượng rộng rãi. Trong đó, lực lượng nòng cốt bao gồm dân quân tự vệ, dân phòng; lực lượng chuyên trách, kiêm nhiệm của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và của Bộ, ngành Trung ương, cơ quan ngang Bộ, địa phương. Còn lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia.
Với 55 điều, Luật Phòng thủ dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2024.