Việc tái cấu trúc hệ thống đại học công lập không chỉ là yêu cầu tất yếu của quá trình đổi mới giáo dục, mà còn là bước đi chiến lược để hình thành những trung tâm đào tạo - nghiên cứu có tầm ảnh hưởng khu vực.

Đây là nền tảng quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nhân lực, thúc đẩy sáng tạo và hội nhập sâu hơn vào mạng lưới tri thức toàn cầu.
UBND TPHCM đang trình phương án sắp xếp lại toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Ở bậc đại học, phương án đề xuất giữ nguyên Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và Trường Đại học Thủ Dầu Một, đồng thời tổ chức lại Trường Đại học Sài Gòn trên cơ sở sáp nhập Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu, do có sự tương đồng về đào tạo sư phạm.
Đầu năm 2024, thông tin Trường Đại học Đồng Nai gửi văn bản báo cáo UBND tỉnh về việc 34 giảng viên có nguy cơ không bố trí được việc làm đã gây xôn xao dư luận.
Theo báo cáo ban đầu, nhiều ngành đào tạo của trường rơi vào tình trạng “đóng băng”, tuyển sinh thấp hoặc không có sinh viên như Sư phạm Lịch sử, Sư phạm Vật lý, Sư phạm Hóa học, Khoa học môi trường, Quản lý đất đai. Đặc biệt, bốn ngành sư phạm đã dừng tuyển sinh do không còn nhu cầu đào tạo giáo viên tại địa phương, trong khi hai ngành khác lại thiếu giảng viên có trình độ tiến sĩ.
Dù sau đó Trường Đại học Đồng Nai đã rút lại văn bản để rà soát và hoàn chỉnh báo cáo, song sự việc này, theo nhiều chuyên gia giáo dục, đã phản ánh rõ thực tế: mô hình các trường đại học địa phương nhỏ lẻ, đơn tuyến đang bộc lộ những giới hạn lớn. Không chỉ riêng Đồng Nai, tình trạng khó khăn tương tự cũng diễn ra tại Trường Đại học Quảng Bình và Trường Đại học Quảng Nam.
Tại Trường Đại học Quảng Bình, đầu năm 2024, hàng trăm giảng viên bị nợ lương nhiều tháng do nhà trường không đủ nguồn tài chính chi trả. Thời điểm cao nhất, trường có tới 10.000 sinh viên, nhưng sau đó giảm chỉ còn khoảng 1.000. Trong năm học 2023 - 2024, trường chỉ có hơn 300 sinh viên mới nhập học. “Nguồn thu chính của trường là học phí từ các ngành ngoài sư phạm, nhưng hiện nay sinh viên các ngành này gần như không còn. Trong khi số cán bộ, giảng viên được tuyển thời điểm trường còn đông sinh viên vẫn giữ nguyên, khiến quỹ lương vượt xa khả năng chi trả”, lãnh đạo nhà trường chia sẻ.
Tương tự, Trường Đại học Quảng Nam cũng từng đối mặt với hàng loạt khó khăn trong quá trình vận hành. Các ngành đào tạo như Sư phạm Sinh học, Ngữ văn, Vật lý, Lịch sử nhiều năm liên tục “trắng” thí sinh. Năm 2024, công tác tuyển sinh có tín hiệu tích cực hơn, song số lượng vẫn khiêm tốn so với mặt bằng chung của một trường đại học. Cụ thể, hệ chính quy tuyển 778 sinh viên, đạt 110% so với chỉ tiêu giao. Tuy vậy, việc không đạt chỉ tiêu trong nhiều năm liền đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thường xuyên của trường, đặc biệt là nguồn tài chính cho giảng dạy, nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất.
Theo báo cáo ba công khai, tổng thu của Trường Đại học Quảng Nam từ năm 2020 đến 2022 chỉ dao động quanh mức 36 - 39 tỷ đồng/năm, đến năm 2024 là khoảng 47,2 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước chiếm phần lớn. Sự sụt giảm nguồn thu khiến lộ trình tự chủ đại học - mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển của các trường công lập bị chậm lại.

Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, cả nước hiện có 244 cơ sở giáo dục đại học, trong đó 172 trường công lập. Sau khi các bộ, ngành và địa phương thực hiện sáp nhập, hợp nhất, nhiều trường đại học công lập cũng thay đổi cơ quan chủ quản.
Theo Quyết định số 1723/QĐ-TTg ngày 12/8/2025 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT hiện quản lý 40 cơ sở giáo dục đại học, gồm 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng. Các trường còn lại trực thuộc các bộ, ngành hoặc UBND tỉnh, thành phố. Một số bộ có số lượng trường đại học lớn (9 - 10 trường) là Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Trong khi đó, TPHCM là địa phương có nhiều trường đại học trực thuộc UBND cấp tỉnh nhất với 3 trường: Đại học Sài Gòn, Đại học Thủ Dầu Một và Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Tuy số lượng cơ sở đào tạo khá lớn, song nhiều chuyên gia cho rằng mạng lưới này thiếu tính liên kết và quy hoạch tổng thể, dẫn đến tình trạng “đông mà yếu”. Các trường địa phương, phần lớn trực thuộc UBND tỉnh, thường có quy mô nhỏ, nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo nhân lực phục vụ tại chỗ. Khi cơ cấu kinh tế địa phương thay đổi, nhu cầu nhân lực mới không còn trùng với thế mạnh sư phạm truyền thống, các trường này chậm thích ứng, không kịp mở ngành mới hoặc nâng cấp đội ngũ giảng viên đạt chuẩn.
Đầu năm 2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 452/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Báo cáo của Bộ GD&ĐT khi xây dựng đề án này cho thấy, có 26 cơ sở giáo dục đại học thuộc địa phương nhiều năm không có cải thiện đáng kể về quy mô đào tạo, tuyển sinh khó khăn, hoạt động kém hiệu quả.
Nhìn tổng thể, các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam được phân bố trên khắp các vùng miền, song có sự chênh lệch rõ rệt về mật độ và quy mô. Các trường tập trung chủ yếu tại các vùng kinh tế phát triển, đặc biệt là Đồng bằng sông Hồng chiếm hơn 44% tổng số trường đại học cả nước, tiếp đến là vùng Đông Nam Bộ với 18,4%. Ngược lại, vùng Tây Nguyên có tỷ lệ thấp nhất, chỉ khoảng 1,6%.

Theo các chuyên gia giáo dục, tái cấu trúc hệ thống đại học công lập là xu thế tất yếu trong bối cảnh hiện nay.
TS Lê Đông Phương - nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Đại học (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) nhận định, sắp xếp, tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học không chỉ là việc sáp nhập về mặt tổ chức, mà sâu xa hơn, là cuộc cải tổ toàn diện về tư duy quản trị và sứ mệnh đào tạo.
Dưới góc độ quản trị, đây vừa là cách các cấp quản lý nhìn nhận sự thay đổi cấu trúc hệ thống, vừa là quá trình các trường sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, giảng viên trong khuôn khổ những đơn vị mới hình thành sau hợp nhất. Quan trọng hơn, đó là sự điều chỉnh tư duy về quản lý và vận hành, hướng tới mô hình tinh gọn, thích ứng linh hoạt với biến động của xã hội - điều vốn không dễ dàng khi phải vượt qua nếp cũ và thói quen lâu năm.
Theo TS Phương, để tái cấu trúc trở thành bước chuyển mang tính chiến lược của giáo dục đại học Việt Nam, cần có lộ trình tổng thể, tầm nhìn dài hạn và các bước triển khai cụ thể. Quá trình này đòi hỏi nghiên cứu kỹ lịch sử phát triển của hệ thống, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và chọn lọc cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Mọi hoạt động cần được tiến hành trên tinh thần hợp tác, tránh áp đặt duy ý chí. Công tác truyền thông chính sách cũng phải được triển khai sớm để tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Tái cấu trúc không nên dừng ở việc sáp nhập hay hợp nhất, mà cần tiến xa hơn - hình thành các hệ thống đại học (university system) gồm những trường có cùng định hướng và năng lực, đặt tại nhiều địa bàn khác nhau. Cách làm này giúp tạo mặt bằng chung về chất lượng đào tạo nhưng vẫn giữ bản sắc riêng của từng đơn vị.
Sau tái cấu trúc, các cơ sở cần được hỗ trợ về năng lực quản trị, học thuật, tài chính, cũng như có chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học cơ bản và hỗ trợ người học. Chỉ khi đó, chủ trương tái cấu trúc mới thật sự trở thành động lực đổi mới mô hình quản trị và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu trong giáo dục đại học Việt Nam.
TS Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT) cũng cho rằng, tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học hiện nay không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc. Mạng lưới cơ sở đào tạo đang phân mảnh, phân bố thiếu hợp lý: có nơi tập trung dày đặc, nơi lại gần như “trắng” đại học. Theo ông Vinh, chủ trương tái cấu trúc cần giải quyết ba điểm nghẽn lớn: khắc phục lãng phí nguồn lực; phân bổ lại ngành nghề và quy mô đào tạo hợp lý; đồng thời nâng cao chất lượng đồng bộ để đạt mục tiêu của Nghị quyết 71-NQ/TW về phát triển nhân lực chất lượng cao.
“Nếu coi tái cấu trúc chỉ là biện pháp tình thế, vài năm nữa chúng ta sẽ lại phải làm lại. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tái cấu trúc chỉ thành công khi gắn với tầm nhìn dài hạn và đầu tư chiến lược”, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT) nhấn mạnh.
Nhiều chuyên gia giáo dục khác cũng đề xuất các giải pháp trọng tâm trong quá trình sắp xếp lại hệ thống đại học. Trước hết, cần sáp nhập, hợp nhất hoặc chuyển đổi mô hình đối với những trường hoạt động kém hiệu quả. Các cơ sở có quy mô nhỏ, tuyển sinh thấp trong nhiều năm hoặc không còn phù hợp với nhu cầu nhân lực địa phương nên được xem xét sáp nhập vào đại học vùng hoặc các trường khác.
Cùng với đó, hệ thống giáo dục đại học cần được phân tầng rõ ràng và định hướng phát triển cụ thể. Mỗi nhóm trường - từ đại học nghiên cứu, đại học ứng dụng đến cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao cần có mục tiêu, nhiệm vụ và tiêu chí đánh giá riêng.
“Một yêu cầu quan trọng khác là tăng cường quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình. Các trường phải được trao quyền tự chủ thực chất trong quản lý tài chính, nhân sự, học thuật, đồng thời minh bạch trong hoạt động và chịu trách nhiệm rõ ràng về kết quả đào tạo, nghiên cứu khoa học cũng như sử dụng ngân sách công”, một chuyên gia giáo dục đại học nêu quan điểm.
Trung Quốc là ví dụ điển hình bởi bối cảnh chính trị - kinh tế của họ có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Ban đầu, Trung Quốc cũng đối mặt với vô vàn thách thức như phản kháng nội bộ, khác biệt văn hóa học thuật, hạn chế tài chính… Nhưng nhờ ý chí chính trị mạnh mẽ cùng các dự án đầu tư quy mô lớn, Trung Quốc đã hình thành những đại học tầm vóc như Đại học Chiết Giang, Đại học Cát Lâm. Hệ thống đại học của họ trở thành lực lượng đóng góp trực tiếp vào sức mạnh khoa học - công nghệ, góp phần đưa Trung Quốc vươn lên vị thế một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới. - TS HOÀNG NGỌC VINH