Thay đổi tư duy, thúc đẩy chất lượng giáo dục đại học

Hiếu Nguyễn 22/10/2025 15:57

Thời gian qua, hoạt động bảo đảm chất lượng giáo dục đại học có những bước chuyển mạnh mẽ, giúp hình thành, phát triển văn hóa chất lượng.

Sinh viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (TPHCM). Ảnh: NTCC
Sinh viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (TPHCM). Ảnh: NTCC

Tuy nhiên, cần tiếp tục nhiều giải pháp đồng bộ để hệ thống đảm bảo chất lượng của nhà trường vận hành hiệu quả, cải tiến liên tục, bền vững.

Văn hóa chất lượng dần hình thành, phát triển

Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, đến 30/9/2025, cả nước 250 cơ sở giáo dục đại học và 23 trường cao đẳng sư phạm hoàn thành báo cáo tự đánh giá chu kỳ 1; 134 cơ sở giáo dục đại học, 5 trường cao đẳng sư phạm hoàn thành báo cáo tự đánh giá chu kỳ 2.

Đã có 201 cơ sở giáo dục đại học, 12 trường cao đẳng sư phạm, 2.041 chương trình đào tạo được đánh giá, công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn trong nước. 17 cơ sở giáo dục đại học, 700 chương trình đào tạo được đánh giá, công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn nước ngoài.

Nhận thức của cơ sở giáo dục đại học về vai trò của bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng chuyển biến rõ rệt, thể hiện qua việc chủ động thực hiện tự đánh giá, cải tiến quy trình nội bộ, tham gia kiểm định ở nhiều cấp độ. Hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện, đồng bộ. Số lượng, chất lượng đội ngũ kiểm định viên được nâng cao.

Tuy nhiên, về điểm yếu, hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong tại nhiều cơ sở giáo dục đại học còn thiếu tính đồng bộ. Văn hóa chất lượng chưa được hình thành bền vững tại nhiều cơ sở. Kết quả kiểm định chất lượng, dù đã đạt được, nhưng ở nhiều nơi chưa được khai thác như công cụ quản trị thực chất, chỉ dừng ở mức đáp ứng yêu cầu thủ tục hành chính…

Nhận định về hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong từ kết quả kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục đại học, PGS.TS Tạ Thị Thu Hiền - Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, cơ sở giáo dục đại học đã tuân thủ quy định của pháp luật, thành lập đơn vị/phân công cá nhân để triển khai hoạt động bảo đảm chất lượng giáo dục.

Một số cơ sở xác định rõ ràng mô hình hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong và triển khai thực hiện tốt công tác bảo đảm chất lượng. Một số có hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong điển hình, văn hóa chất lượng đã được hình thành, phát triển.

PGS.TS Nghiêm Xuân Huy - Viện trưởng Viện Đào tạo số và Khảo thí (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhắc đến mối quan hệ mật thiết giữa đảm bảo chất lượng bên trong (IQA) và xếp hạng; đồng thời đưa ra điểm yếu phổ biến trong xếp hạng hiện nay của cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, bao gồm: Uy tín học thuật, uy tín tuyển dụng, công bố và trích dẫn trên Scopus, thu nhập từ đào tạo và nghiên cứu, tỷ lệ giảng viên và sinh viên quốc tế, tỷ lệ giảng viên/sinh viên.

Nguyên nhân chính của những điểm yếu là do chưa thực hiện triệt để nguyên lý bảo đảm chất lượng. Cụ thể, chưa sử dụng hiệu quả phản hồi của các bên liên quan trong cải tiến chất lượng giáo dục, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín học thuật, uy tín tuyển dụng.

Cùng với đó, chưa phát triển hài hòa, gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đầu tư và chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên chưa mang lại hiệu quả mong đợi. Các chính sách hiện tại chưa tạo được động lực mạnh mẽ cho giảng viên tham gia nghiên cứu và xuất bản quốc tế. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học còn mang tính hình thức, chưa tạo ra mạng lưới hợp tác quốc tế hiệu quả và tỷ lệ học giả quốc tế thấp.

bao-dam-chat-luong-giao-duc-dai-hoc-6223.jpg
Giảng viên, sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Ảnh: NTCC

Hoàn thiện hành lang pháp lý, chính sách đầu tư

Từ thực tiễn cơ sở, GS.TS Phạm Văn Cường - Phó Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam đưa ra các yếu tố để hệ thống đảm bảo chất lượng của nhà trường vận hành hiệu quả, cải tiến liên tục và bền vững.

Theo đó, sự cam kết của lãnh đạo là điều kiện tiên quyết. Nếu không có sự chỉ đạo quyết liệt từ cấp lãnh đạo, hoạt động đảm bảo chất lượng dễ bị coi nhẹ hoặc làm đối phó, làm theo phong trào. Sự tham gia đồng bộ của toàn thể cán bộ, giảng viên, nhân viên, người học giúp hình thành, lan tỏa văn hóa chất lượng là yếu tố cốt lõi để cải tiến liên tục. Hệ thống dữ liệu, minh chứng được thu thập toàn diện, khách quan, cập nhật, số hóa là cơ sở đáng tin cậy để đưa ra quyết định chính xác.

Đối sánh với chuẩn mực quốc gia và quốc tế giúp nhà trường xác định rõ vị thế, đồng thời tìm ra giải pháp cải tiến phù hợp nhu cầu xã hội, thích nghi với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước và xu thế hội nhập. Cuối cùng là sự đồng lòng, hợp tác của đối tác, đặc biệt các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động.

Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước về bảo đảm, kiểm định chất lượng giáo dục, PGS.TS Tạ Thị Thu Hiền nhấn mạnh cần sớm ban hành Khung bảo đảm chất lượng giáo dục quốc gia, tạo thống nhất giữa bảo đảm chất lượng bên trong (IQA), bảo đảm chất lượng bên ngoài (EQA) và Khung trình độ quốc gia Việt Nam (VQF).

Chuẩn hóa các chuẩn cơ sở giáo dục đại học, chuẩn chương trình đào tạo với các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo. Có cơ chế, chính sách, quy định pháp lý rõ ràng về tổ chức, nhân sự làm công tác bảo đảm chất lượng để vận hành và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục.

PGS.TS Tạ Thị Thu Hiền cũng đề xuất quy định rõ ràng kèm các cơ chế, chính sách đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục. Thiết lập, chuẩn hóa hệ thống cơ sở dữ liệu về bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục; hỗ trợ phát triển hệ thống khảo sát, công khai thông tin, dữ liệu làm căn cứ cho các hoạt động đối sánh phát triển cơ sở giáo dục, chương trình đào tạo.

Quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học trong xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục gắn liền với phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Đồng thời, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong bảo đảm chất lượng, kiểm định chất lượng giáo dục.

Bên cạnh hoàn thiện thể chế và chính sách, PGS.TS Nghiêm Xuân Huy đề xuất xây dựng “cộng đồng thực hành” cho cán bộ đảm bảo chất lượng, tổ chức hội thảo, đào tạo chuyên sâu, trao đổi kinh nghiệm. Điều này giúp chuẩn hóa năng lực, chia sẻ giải pháp, tránh tình trạng mỗi trường tự mày mò.

Đồng thời, tổ chức các khóa bồi dưỡng bắt buộc cho lãnh đạo cấp cao về cách sử dụng dữ liệu từ hệ thống IQA để ra quyết định chiến lược nhằm đảm bảo “văn hóa chất lượng” được thấm nhuần từ cấp cao nhất và IQA trở thành công cụ quản trị cốt lõi. Chính phủ đàm phán mua các gói truy cập quốc gia cho hệ thống thiết yếu, tạo điều kiện công bằng cho tất cả các trường, đặc biệt là trường nhỏ, tiếp cận công cụ chuẩn quốc tế để nâng cao chất lượng nghiên cứu, đào tạo.

“Cần đầu tư nền tảng dữ liệu quốc gia chuẩn hóa, liên thông dữ liệu từ tất cả các cơ sở giáo dục đại học; tự động trích xuất báo cáo, chỉ số phục vụ so sánh, đối sánh và xếp hạng. Điều này giúp giảm gánh nặng báo cáo thủ công, cung cấp dữ liệu lớn tin cậy cho hoạch định chính sách quốc gia và so sánh minh bạch”, PGS.TS Nghiêm Xuân Huy.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/thay-doi-tu-duy-thuc-day-chat-luong-giao-duc-dai-hoc-post753531.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/thay-doi-tu-duy-thuc-day-chat-luong-giao-duc-dai-hoc-post753531.html
Bài liên quan
Chứng chỉ giáo dục đại học: Chìa khóa học tập linh hoạt
Khái niệm “chứng chỉ giáo dục đại học” lần đầu được đưa vào dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), mở ra một hướng đi mới trong việc đa dạng hóa hình thức học tập và công nhận kết quả học tập của người học.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Thay đổi tư duy, thúc đẩy chất lượng giáo dục đại học