Đề án nhằm hỗ trợ phát triển GDMN vùng khó khăn đến trường thực hiện các mục tiêu: Tăng cường cơ hội tiếp cận, đảm bảo các điều kiện đội ngũ, cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu tới trường của trẻ mầm non vùng khó khăn; nâng cao tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ, đảm bảo điều kiện thực hiện phổ cập mẫu giáo; Nâng cao chất lượng, sự phù hợp đối với giáo dục mầm non tại các vùng khó khăn và miền núi, dân tộc thiểu số; Bảo tồn, phát huy văn hóa, ngôn ngữ của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đặc biệt là tạo cơ hội trẻ em vùng khó khăn và ĐBKK được tiếp cận với Chương trình GDMN, được tăng cường tiếng Việt; nhằm phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách chuẩn bị tốt các điều kiện để trẻ tiếp cận tốt hơn với GDPT; giảm bớt khoảng cách vùng miền về chất lượng thực hiện CT GDMN, đảm bảo thực hiện công bằng cho trẻ em vùng khó khăn.
Các thành viên tham gia 21 thành viên Ban soạn thảo và 15 thành viên tổ biên tập đã làm rõ nhiều nội dung liên quan. Như việc triển khai kế hoạch, từng bước để tạo ra sản phẩm, cũng như việc chỉnh sửa câu chữ cho hợp lý, đưa ra thực trạng của vấn đề. Kế hoạch triển khai cần kế thừa kế hoạch Đề án phổ cập Giáo dục mẫu giáo (3-4 tuổi) và duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập Giáo dục Mầm non cho trẻ em mẫu giáo.
Các nội dung cần biên tập cho phù hợp với đúng tên gọi của vấn đề, việc đánh giá riêng cho nhóm đối tượng cần cụ thể để từ đó có bài học kinh nghiệm và đề xuất nghiệm vụ. Nội dung cần có cả nhiệm vụ và giải pháp cụ thể... Các nội dung sẽ tiếp tục được ý kiến để hoàn thiện Đề án trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng, sự cần thiết ban hành Đề án, Thứ trưởng Ngô Thị Minh đề nghị các thành viên ban soạn thảo và tổ biên tập cần làm rõ nội dung GDMN vùng khó khăn, giải pháp quan tâm đưa chỉ tiêu nào vào, cần bàn bạc tính toán kỹ, văn bản nào quy định cụ thể thế nào. Cần làm rõ từ tiêu đề khái niệm từng nhóm đối tượng vùng khó khăn và vấn đề hỗ trợ GDMN vùng khó khăn cả nhà trẻ và mẫu giáo, trẻ mầm non thế nào, mẫu giáo ra sao, điều kiện GV có đảm bảo thực hiện hay không.
Với những hạn chế tồn tại, cần có sự phân tích thực trạng để đưa ra giải pháp tháo gỡ, nhiệm vụ và giải pháp phải được làm rõ. Quan điểm, mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể phải rõ ràng, các giai đoạn thực hiện thế nào cho từng lứa tuổi, nâng cao thể trạng và kinh phí thực hiện cần có sự tính toán phù hợp. Cách tiếp cận quan tâm đến đối tượng GDMN vùng khó phải đạt sự công bằng, có sự phối hợp liên ngành. Đề án được ban hành phải tác động tích cực đến nhóm đối tượng và xã hội để nâng cao hiệu quả nuôi dạy trẻ mầm non ở vùng khó khăn.
Bà Cù Thị Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ GDMN đã đưa ra con số để thấy được những khó khăn của GDMN vùng khó khăn: Số trường vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn (ĐBKK) chiếm tỷ lệ 23% tổng số trường mầm non toàn quốc, chủ yếu rơi vào vùng miền núi, dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo. Năm 2021, báo cáo giám sát của Quốc hội cho thấy GDMN vùng khó khăn có chất lượng còn thấp.
Số nhóm/lớp vùng khó khăn và ĐBKK chiếm 52,7% tổng số nhóm lớp trên toàn quốc; Số trẻ em mầm non vùng khó khăn và ĐBKK chiếm gần 20% tổng số trẻ đến trường trong toàn quốc; Tỷ lệ phòng học kiên cố vùng khó khăn và ĐBKK khoảng 61%, còn lại là nhà tạm tranh tre nứa lá; Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, thấp còi vùng khó khăn và ĐBKK còn cao so với vùng thuận lợi.