Việc áp dụng phương án giá điện 2 thành phần có thể được coi là công bằng hơn so với biểu giá hiện tại, vì nó phản ánh một cách chính xác hơn chi phí mà mỗi khách hàng phải chịu để sử dụng dịch vụ điện.
Bộ Công Thương vừa qua đã có văn bản yêu cầu EVN xây dựng lộ trình và đề xuất đối tượng khách hàng sử dụng điện áp dụng giá bán điện hai thành phần.
Trên cơ sở đề xuất về cơ chế và lựa chọn đối tượng khách hàng áp dụng giá bán điện 2 thành phần, thực hiện tính toán đối chứng, so sánh việc áp dụng giá bán điện hai thành phần với việc áp dụng giá bán điện theo biểu giá điện hiện hành, quy định tại Quyết định số 249 ngày 8/11/2023 của Bộ Công Thương quy định về giá bán điện.
Ngoài ra, EVN cũng được yêu cầu tổ chức truyền thông, lấy ý kiến rộng rãi với cơ chế và lộ trình áp dụng giá bán điện hai thành phần theo đề xuất. Đồng thời nghiên cứu, đánh giá tác động đối với việc thực hiện giá bán lẻ điện bình quân cũng như tác động với các nhóm khách hàng sử dụng điện khi áp dụng cơ chế giá bán điện hai thành phần.
EVN báo cáo tổng kết và đề xuất cơ chế giá bán điện hai thành phần sau giai đoạn tính toán, đối chứng, gửi về Bộ Công Thương để nghiên cứu, trình Thủ tướng xem xét quyết định.
Theo Bộ Công Thương, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới đều áp dụng giá điện hai thành phần. Việc áp dụng giá điện hai thành phần sẽ đưa ra tín hiệu đúng cho cả bên sản xuất điện và bên tiêu thụ điện để nâng cao hiệu quả kinh tế từ việc phân bổ và sử dụng nguồn lực hợp lý.
Theo đó, với việc áp dụng thêm thành phần giá công suất (đồng/kWh hoặc đồng/kVA) sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng điện hiệu quả, góp phần nâng cao hệ số phụ tải điện và tiết kiệm được tiền điện, đồng thời giúp giảm việc đầu tư công suất nguồn và mở rộng lưới điện (giảm chi phí tránh được) đáp ứng nhu cầu điện cho khách hàng và thu hồi được chi phí đầu tư đối với khách hàng đăng ký công suất lớn nhưng sử dụng ít hơn so với mức công suất đã đăng ký.
Việc áp dụng giá điện hai thành phần gồm giá công suất và giá điện năng đem lại lợi ích cho cả khách hàng và đảm bảo thu hồi được chi phí đầu tư của ngành điện. Xuất phát từ quan điểm trên, cơ chế giá điện hai thành phần được xem như biện pháp quản lý nhu cầu phụ tải tự nhiên.
Tại Việt Nam, hiện, các tổng công ty điện lực thuộc EVN đã triển khai áp dụng công tơ điện tử có khả năng đo công suất và điện năng đối với hầu hết các khách hàng sử dụng điện cho mục đích sản xuất, kinh doanh (những khách hàng thuộc đối tượng áp dụng giá điện theo thời gian sử dụng điện trong ngày).
Việc triển khai giá bán điện theo công suất và điện năng là cần thiết nhằm đảm bảo giá điện tạo tín hiệu phản ánh đúng, đủ chi phí (về mặt công suất) tới khách hàng sử dụng điện.
Theo ông Trần Việt Hòa, Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương), giá hai thành phần sẽ đưa ra tín hiệu đúng cho bên sản xuất và tiêu thụ điện, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Nếu áp thêm giá công suất vào cơ cấu biểu giá điện, sẽ đáp ứng nhu cầu sử dụng, tiết kiệm tiền điện và giảm đầu tư nguồn, lưới.
Ngoài ra, theo ông Hòa, giá điện theo công suất và lượng tiêu thụ sẽ phản ánh đúng, đủ chi phí (về mặt công suất) tới khách hàng dùng điện, vốn là điểm hạn chế khi chỉ tính theo điện năng tiêu thụ như hiện nay.
“Tôi cho rằng, chúng ta cần có thời gian thí điểm giá điện 2 thành phần nhằm đánh giá, tổng kết và nhân rộng đại trà nếu thực sự hiệu quả”. Ông Nguyễn Tiến Thỏa, Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam
Theo ý kiến của các chuyên gia, hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng, chủ yếu cho khách hàng sản xuất kinh doanh, có nơi áp dụng cho điện sinh hoạt. Giá điện 2 thành phần gồm giá điện theo công suất và điện năng.
Trong khi đó, Việt Nam đang áp dụng biểu giá điện một thành phần, tức biểu giá điện tính theo điện năng. Biểu giá điện một thành phần theo điện năng chủ yếu bù đắp chi phí biến đổi về nguyên vật liệu. Còn giá điện hai thành phần bao gồm thêm chi phí cố định như chi phí khấu hao tài sản, chi phí sửa chữa, chi phí tiền lương...
Ông Nguyễn Minh Đức, Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) lý giải, giá điện 2 thành phần gồm giá công suất và giá điện năng. Nôm na nó khá giống với giá cước điện thoại cố định, tức là một số tiền cố định gọi là tiền thuê bao hàng tháng, dù không nghe gọi gì, gọi là giá công suất. Phần thứ hai là tính trên lượng điện năng tiêu thụ, gọi là giá điện năng.
Về tác động của giá điện 2 thành phần, ông Đức cho hay, sẽ giảm việc bù chéo giữa các khách hàng, đây là một vấn đề mà nhiều người quan tâm. Bên cạnh đó, tránh các khách hàng cứ đăng ký công suất lớn rồi không dùng.
Ví dụ như có nhà máy đăng ký công suất lớn, yêu cầu điện lực chuẩn bị đường dây, trạm biến áp nhưng dự án chậm tiến độ, nhiều năm trời không tiêu thụ điện. Chi phí đường dây, trạm biến áp trong những năm này bị lãng phí. Chi phí này lại đổ lên đầu các khách hàng khác.
Trong khi đó, ông Nguyễn Tiến Thỏa, Chủ tịch Hội Thẩm định giá Việt Nam, cho rằng biểu giá điện một thành phần không phản ánh hết tác động gây ra đối với sản xuất điện, nhưng biểu giá điện 2 thành phần thì ngược lại khi phản ánh đầy đủ chi phí đầu tư và chi phí vận hành, trên cơ sở đó tiêu dùng điện chi trả để bảo đảm đầu tư đó. Cùng với đó còn có tác dụng phát đi tín hiệu để người sử dụng dùng điện biết được rằng mình sử dụng điện như thế nào để điều chỉnh hành vi sử dụng điện cho hiệu quả.
“Khi người ta điều chỉnh giá điện, hầu như khách hàng họ không kêu bởi chi phí cố định giữ nguyên và minh bạch”, ông Thỏa nói.
Theo vị chuyên gia này, việc nghiên cứu thí điểm là đúng. Kết quả sẽ giúp đánh giá tác động, chứng minh sự khác nhau giữa hai phương án. Đặc biệt với người tiêu dùng sẽ có cơ hội đánh giá và so sánh giữa hai phương án về mức độ chênh lệch giá khi sử dụng điện.