+ Biện pháp 4: Kết hợp sử dụng lời nói tiếng Việt với tiếng dân tộc của trẻ để hướng dẫn hoạt động.
Nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong quá trình tổ chức hoạt động phát triển kĩ năng đọc, viết và toán cho trẻ từ 2 - 3 tuổi đến 5 - 6 tuổi ở vùng DTTS, giáo viên tiến hành tổ chức các hoạt động nhận thức tương ứng việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt và kết hợp sử dụng tiếng dân tộc với tiếng Việt để giải thích, hướng dẫn giúp trẻ hiểu câu lệnh và nhiệm vụ giáo viên yêu cầu. Cụ thể:
Luyện cho trẻ nghe đúng âm thanh ngôn ngữ, phát âm đúng theo chuẩn mực âm thanh tiếng Việt, sửa các lỗi phát âm cho trẻ. VD: Năm và năng, mười với mời... Cung cấp, bổ sung thêm số lượng từ tiếng Việt trong vốn từ hàng ngày của trẻ. VD: Dùng các từ: Nhiều hơn, ít hơn; thêm vào, bớt đi, chia nhóm đối tượng thành 2 phần, số lượng bằng nhau, số lượng không bằng nhau… để nói, để trả lời đủ câu, có nghĩa.
Giáo viên dạy trẻ nói tiếp ý cho câu bỏ dở hoặc sử dụng từ với các mẫu câu khác nhau khi trẻ đã có vốn từ mới bằng cách giáo viên nói lặp lại nhiều lần, sau đó cho trẻ nhắc lại. VD: Từ nhiều hơn được sử dụng với nhiều mẫu câu đơn, câu ghép khác nhau “số thìa nhiều hơn số đĩa 1 cái”, “nhóm thìa có số lượng nhiều hơn nhóm đĩa”…
Nâng cao khả năng hiểu nghĩa của từ; dạy trẻ dùng từ chính xác, phát triển vốn từ đồng nghĩa, trái nghĩa, nhiều nghĩa. VD: Cùng là từ “năm” nhưng diễn đạt trong ngữ cảnh khác nhau có ý nghĩa khác nhau (từ chỉ số lượng 5, từ chỉ chữ số 5, từ chỉ số thứ tự 5, từ để chỉ niên lịch).
Cho trẻ sử dụng vốn từ đã có để diễn đạt những điều mình nhận biết về đối tượng trong hoạt động giao tiếp và nói đúng các mẫu câu theo cấu trúc câu tiếng Việt. VD: Câu đơn “nhóm hoa có tất cả 5 bông”, giáo viên sửa các câu nói của trẻ sai về trật tự từ như: “Tất cả hoa có 5 bông” diễn đạt lại là “có tất cả là 5 bông hoa”…
Ảnh minh họa/ Internet |
Chú ý đến từng trẻ trong quá trình tổ chức hoạt động.
Phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ trong các hoạt động học, chơi ở cả hai dạng: Đối thoại (nghe hỏi - trả lời) và độc thoại (tự giới thiệu theo chủ đề). VD: Yêu cầu trẻ chia nhóm vật thành 2 phần theo ý thích của trẻ và đặt câu hỏi cho cô và các bạn đoán xem trẻ đã chia như thế nào?
Chuẩn bị cho trẻ khả năng tiền đọc, viết như: Cho trẻ làm quen với hệ thống từ số bằng tiếng Việt từ 1 đến 10 và làm quen với một số hành vi đọc, viết (ngồi, cầm bút, tô hình ảnh, tô chữ số, nối hình ảnh với số lượng đúng, giở sách vở, “đọc” đúng chiều), khai thác và hướng dẫn trẻ thực hiện các vở bé làm quen với toán, chữ viết dành cho trẻ mỗi độ tuổi.
+ Biện pháp 5: Xây dựng và tổ chức môi trường hoạt động theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
Tạo dựng thành khu vực riêng biệt (các góc hoạt động khác nhau) trong lớp để trẻ có thể tự làm việc một mình hay nhóm và các góc hoạt động phải phù hợp với mục tiêu và yêu cầu giáo dục từng chủ đề. VD: Chủ đề “trường tiểu học” nội dung cho trẻ làm quen với toán đã thực hiện đến số lượng 10... thì đồ dùng được sắp xếp phải có số lượng tương ứng, phải có mối liên quan đến trường tiểu học là sách, bút, bảng, cặp sách...
Thay đổi, sắp xếp vị trí các góc hoạt động hợp lí, thuận tiện cho trẻ hoạt động cá nhân hoặc nhóm, có ranh giới để trẻ vận động đảm bảo an toàn, bổ sung đồ dùng, đồ chơi thường xuyên tạo cảm giác mới lạ, kích thích hứng thú, sử dụng được trong nhiều hoạt động, phù hợp với mức phát triển nhận thức của trẻ, phù hợp với điều kiện địa phương. VD: Sử dụng các quả Mận, Mơ, Đào, Chuối, Ổi để học LQVT như: So sánh, thêm, bớt, nhận biết số lượng... các loại quả đó hoặc để tìm hiểu đặc điểm, công dụng của các loại quả.
Giáo viên tổ chức cho trẻ hoạt động trong các góc để giúp trẻ được chơi tích cực, chơi sáng tạo, nghĩ ra nhiều cách chơi như: Giới thiệu các góc; quản lí tốt quá trình trẻ chơi... Ngoài ra, giáo viên cần tổ chức cho trẻ hoạt động ở môi trường ngoài lớp để giúp trẻ phát triển các giác quan, phát triển nhận thức về toán học đồng thời với phát triển ngôn ngữ. VD: Giờ hoạt động ngoài trời, GV cho trẻ quan sát đối tượng, tổ chức các hoạt động phát triển vận động, phát triển các kĩ năng đọc, viết và toán qua các thẻ EL hoặc EM “Đi theo nhịp điệu”, “ Chị Gió nói”, “Trộn lẫn”...
+ Biện pháp 6: Tăng cường sử dụng các VLTN vào quá trình tổ chức hoạt động làm quen sớm với đọc, viết và toán cho trẻ MN ở vùng DTTS
Để sử dụng các VLTN vào quá trình tổ chức hoạt động làm quen sớm với đọc, viết và toán cho trẻ MN ở vùng DTTS có hiệu quả cần:
Thứ nhất: Làm sạch, đẹp, xử lí an toàn các VLTN để sử dụng được lâu dài, sử dụng cho nhiều hoạt động khác nhau.
Thứ hai: Lập kế hoạch sử dụng VLTN vào quá trình tổ chức các hoạt động phát triển kĩ năng đọc, viết và toán cho trẻ. VD: Hoạt động học: Đếm, thêm - bớt tạo sự bằng nhau trong phạm vi 9, nhận biết chữ số 9 và đếm theo khả năng; hoạt động ngoài trời: Nhặt và đếm lá vàng; xếp xen kẽ những viên sỏi khác màu...; hoạt động góc: Góc học tập (xếp số 9 bằng những hạt Ngô), góc nghệ thuật (in đủ hình 9 cái lá, nhuộm màu các viên sỏi)...
Thứ ba: Sử dụng VLTN vào các quá trình giáo dục khác nhau để nhận biết và đánh giá hiệu quả hình thành, phát triển kĩ năng đọc, viết và toán của trẻ. VD: Dùng các nhóm hột, hạt (Me, Gấc, Đỏ, Trẩu, Dẻ, Đậu ván) để đếm, thêm, bớt so sánh số lượng…
Biện pháp tổ chức hoạt động làm quen sớm với đọc, viết và toán cho trẻ MN ở vùng DTTS được vận dụng linh hoạt và phối hợp chặt chẽ với nhau, góp phần quan trọng đảm bảo cho sự thành công của quá trình giáo dục tiếp theo cho trẻ ở độ tuổi lớn và cấp học cao hơn. Trong quá trình đổi mới chương trình GDMN, chúng tôi đề xuất giáo viên tiếp tục kế thừa, chọn lọc các phương pháp “cho trẻ làm quen với chữ cái/ chữ viết”; “làm quen với sách”, “hình thành biểu tượng toán sơ đẳng”, “làm quen với toán” kết hợp sử dụng sáu biện pháp trên để tổ chức các hoạt động cho trẻ từ 2 - 3 tuổi đến 5 - 6 tuổi ở vùng DTTS để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nói chung, hoạt động làm quen sớm với đọc, viết và toán nói riêng.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/7/2009 và Thông tư số 28/2016/TT-BGDĐT ngày 30/12/2016), NXB Giáo dục Việt Nam.
[2] Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (2019), Bộ công cụ hỗ trợ trẻ mầm non làm quen với đọc, viết và toán (cuốn số 1: Giới thiệu tổng quan; cuốn số 4: Thẻ hoạt động cho giáo viên), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Hoàng Thị Dinh và nhóm tác giả (2017), Hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
[4] Đỗ Thị Minh Liên, Lý luận và Phương pháp hình thành biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ mầm non. NXB Đại học Sư phạm, năm 2017.
[5] Hoàng Thị Oanh - Phạm Thị Việt - Nguyễn Kim Đức, Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Cao đẳng Sư phạm Nhà trẻ - Mẫu giáo TW1, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[6] Trần Thị Nga, Làm quen với đọc viết và hoạt động giáo dục giúp trẻ mầm non phát triển hứng thú đọc viết, Tạp chí Giáo dục Mầm non. Số 2/2010.
[7] Trần Thị Ngọc Trâm - Bùi Thị Kim Tuyến (đồng chủ biên) Hướng dẫn chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong thực hiện Chương trình giáo dục mầm non, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam - 2011.
[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình Nghiên cứu thực hành Giáo dục song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi - Chương trình Hmông (Tài liệu truyền thông, được biên soạn trong khuôn khổ Dự án Giáo dục tiểu học Bạn hữu trẻ em hợp tác giữa Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) với Bộ Giáo dục và Đào tạo), Hà Nội - 2008.