Đồng quan điểm, đại biểu Phạm Văn Hòa, cho rằng cần “siết chặt” cả các sản phẩm chai nhựa. Nhà nước cần đánh thuế thật cao ở hai khâu.
Thứ nhất, đối với nhựa, hạt nhựa phổ thông, cần nâng mức thuế nhập khẩu lên gấp 5 - 10 lần hiện nay, thậm chí cao hơn nữa dựa trên sự tính toán chi tiết của các cơ quan chức năng.
Thứ hai, đối với các doanh nghiệp sản xuất, sử dụng nhiều sản phẩm nhựa, phải đánh thuế đầu ra thông qua các sản phẩm cụ thể để lấy kinh phí khắc phục những vấn nạn môi trường.
Riêng với các doanh nghiệp không có hoạt động thu hồi, tái chế sản phẩm nhựa thì phải đánh thuế cao hơn nữa.
“Việc kiểm tra khắt khe, đánh vào kinh tế sẽ buộc các doanh nghiệp phải có sự tính toán kỹ lưỡng phương án sản xuất, kinh doanh của họ, tích cực tìm các sản phẩm thay thế nhựa. Ngoài ra, mức thuế tăng thì giá các sản phẩm cũng sẽ tăng theo, người dân cũng sẽ hạn chế việc sử dụng sản phẩm nhựa tràn lan như hiện nay”, ông Hòa nói.
Cũng theo ông Hòa, cần có quy định cụ thể, chi tiết đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều sản phẩm nhựa như Lavie, Tân Hiệp Phát, Coca Cola…yêu cầu doanh nghiệp phải có biện pháp thu hồi, tái chế, tức là xử lý tại nguồn chứ không phải thụ động giải quyết tình thế. Nếu chưa có, phải sớm đưa tiêu chuẩn này vào hệ sinh thái của doanh nghiệp để định hướng phát triển.
Ở góc độ khác, đại biểu Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghề cá Việt Nam (VINAFIS), Chủ tịch Hội Bảo vệ Môi trường biển (VAMEN) nêu quan điểm: Lần đầu tiên chúng ta có Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Trong khi việc dùng sản phẩm nhựa và xả rác thải nhựa lại là thói quen từ rất lâu của cả cộng đồng. Do vậy, muốn thay đổi thói quen này, cần sự chung tay hành động của cả xã hội chứ không riêng ai vì để thay đổi một thói quen cố hữu không đơn giản.
Đầu tiên, cần phải thể chế hóa, hiện thực hóa luật để có những giải pháp thực sự hữu ích đi vào thực tiễn cuộc sống. Ví dụ, Luật quy định người dân phải phân loại rác thải tại nguồn. Muốn thực thi, phải đưa người dân vào thực hiện, tránh việc chỉ đưa chuyên gia, cơ quan chức năng, chính quyền địa phương vào thì dự án sẽ không thành công như kỳ vọng.
Nói về quan điểm đánh thuế cao đối với các sản phẩm từ nhựa nhập khẩu, ông Hồi cho rằng, đó là một giải pháp hiệu quả nhưng chỉ ở một thời điểm nhất định, bởi bảo vệ môi trường cũng phải bảo đảm phát triển kinh tế.
“Cấm thì dễ nhưng làm sao quản lý được mà môi trường vẫn sạch, kinh tế vẫn phát triển thì mới là việc cần tính toán kỹ. Do vậy, phải quản lý từ doanh nghiệp nhập khẩu nhựa đến doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm nhựa bằng việc yêu cầu doanh nghiệp thu gom, mua lại vỏ sản phẩm mình phát ra để tái chế. Nếu người dân thấy lợi ích kinh tế từ việc thu gom này thì họ sẽ có ý thức làm, còn nếu chỉ là giải pháp hành chính thì cũng giống như quản bóng cao su, đấm chỗ nọ lại phình chỗ kia”, đại biểu Nguyễn Chu Hồi nói.
Trả lời VTC News về những kiến nghị nâng cao mức thuế đối với sản phẩm nhựa và túi nylon, Tổng cục Thuế cho biết, cũng nhất trí với các ý kiến cần phải tăng mức thuế tuyệt đối đối với túi nylon thuộc diện chịu thuế bảo vệ môi trường để từng bước hạn chế sản xuất, sử dụng túi nylon.
Tuy nhiên, theo Tổng cục Thuế, thuế bảo vệ môi trường chỉ là một trong những biên pháp nhằm hạn chế việc sử dụng túi nylon. Ngoài giải pháp này, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp khác như phân loại túi thải ngay từ nguồn, có các biện pháp xử lý rác thải phù hợp, tuyên truyền ý thức của người dân trong việc xả thải, các giải pháp về chế tài xử phạt cần đủ mạnh…
“Thậm chí, tham khảo kinh nghiệm của một số nước có thể cấm sản xuất, buôn bán, sử dụng đối với một số loại túi nylon khó phân hủy và xử lý”, Tổng Cục Thuế nêu.
Trong khi đó, đại diện Bộ Tài chính cho biết, Bộ đang tiếp tục nghiên cứu và đánh giá tình hình thực hiện chính sách thuế bảo vệ môi trường để đề xuất hoàn thiện chính sách thuế này, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ, phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống chính sách thuế liên quan đến bảo vệ môi trường và đặt trong tổng thể Chiến lược Cải cách hệ thống chính sách thuế đến năm 2030.
Theo Viện Chiến lược và Chính sách về Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm, người Việt Nam sử dụng hơn 30 tỷ túi nylon, trung bình mỗi ngày một gia đình dùng 4 túi.
Thống kê từ Hiệp hội Nhựa Việt Nam cho biết, năm 1990, mỗi người Việt Nam chỉ tiêu thụ 3,8kg nhựa mỗi năm, nhưng 25 năm sau, con số này đã là 41kg.