Hoàng Cầm bước vào con đường sáng tác với thể loại kịch thơ. Vở kịch thơ “Hận Nam Quan” được viết năm 1937, lúc ông 15 tuổi. Vở kịch thơ tiếp theo “Kiều Loan” viết năm 1942, lúc ông tròn 20 tuổi. Vở kịch thơ “Kiều Loan” được ban kịch Đông Phương dàn dựng và công diễn lần đầu vào tháng 11/1946.
Sự gắn bó của nhà thơ Hoàng Cầm với sân khấu sau này được thể hiện thêm trong vở kịch thơ “Trương Chi”. Ngoài ra, nhà thơ Hoàng Cầm còn có truyện thơ “Men đá vàng”.
Cùng với bài thơ “Bên kia sông Đuống” viết năm 1948 nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ, “Lá diêu bông” của nhà thơ Hoàng Cầm cũng được công chúng truyền tụng sâu rộng.
Đọc thơ Hoàng Cầm, công chúng như đi lạc vào một vùng kỷ niệm đầy khói sương Kinh Bắc, vừa gặp “Mồ tháng Giêng mưa sũng/ đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu”, đã thấy “Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa/Ném xuống cầu em cởi áo chiều xưa”. Để rồi bâng khuâng “Én bay đi không hướng tìm xuân/Lá ngọt hết rồi/Lá đắng lại phân vân/Muốn nuôi người còn sợ đau dạ người”.
Di sản văn chương mà Hoàng Cầm để lại, cũng là di sản văn hóa rất đặc trưng Kinh Bắc. Hoàng Cầm khác biệt với các bạn thơ đương thời, càng khác biệt với hậu thế. Ông suốt đời lấy thơ làm lẽ sống, chứ không bao giờ lấy thơ làm phương tiện để đạt tới những gì đó mà hồn mình không thể chấp nhận, ví dụ như danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, thù hận.
Tiếng thơ Hoàng Cầm luôn đậm đặc văn hóa Kinh Bắc và văn hóa truyền thống dân tộc. Sinh nhật lần thứ 100, cũng là cơ hội để những người yêu thơ, yêu mến văn hóa tìm thấy những nét xưa đã tàn phai, để thấy “hồn dân tộc” và sứ mệnh của một thi sĩ đích thực.