Trước những lời dị nghị, Trịnh Tuệ bực tức nói với mọi người rằng: “Tôi đỗ nhất Tam khôi mà lại nói là Vương phủ thiên vị thì còn gì gọi là văn chương nữa. Nay để khỏi nghi ngờ, trong triều ngoài nội ai có câu hỏi gì khó ở bất cứ sách vở nào về kinh sử, tả truyện, ý nho, lý số thì đem đến tôi xin trả lời hết!”.
Nhiều người sau đó đến hỏi đều đã được ông giải đáp. Riêng có một phụ nữ nêu ý kiến: “Chiếc đũa là vật thiêng không có chân, lúc thì gãy, lúc thì mất. Vậy nó chạy đi đâu, ở trong kinh điển nào?”. Trịnh Tuệ mỉm cười, đọc hai câu thơ của Lê Thánh Tông: Trời còn giành để An Nam mượn/ Vạch chước binh Ngô mãi mới vừa.
Rồi ông nói tiếp: “Đó chẳng phải là câu thơ của Lê Thánh Tông bản Triều Vịnh núi Chiếc Đũa, nơi khởi phát đế nghiệp mở ra công cuộc bình Ngô của nước ta hay sao? Núi Chiếc Đũa không có chân mà chạy về gốc đấy”.
Mọi người đều bái phục ông thông minh và hiểu biết rộng. Quả ở Thanh Hóa, nơi cửa biển Thần Phú (nay thuộc địa phận làng Văn Đức, xã Nga Phú, huyện Nga Sơn) có ngọn núi đứng một mình tên chữ là Chính Trợ Sơn, gọi nôm là núi Chiếc Đũa, đã có tên trong sách vở. Ngọn núi có hình thù giống như chiếc cọc cắm giữa biển làm cột mốc cho thuyền bè qua lại. Từ xưa, các vua chúa qua đây đều có thơ đề vịnh, ca ngợi cảnh đẹp của phong cảnh nơi đây.
Ví như Thiên Nam động chủ (Lê Thánh Tông) thế kỷ 15, Thượng Dương động chủ (Lê Hiến Tông) đầu thế kỷ 16, Nhật Nam nguyên chủ (Trịnh Sâm) thế kỷ 18. Có lẽ người phụ nữ hỏi về núi Chiếc Đũa nhằm thử Trạng nguyên Trịnh Tuệ kiến thức có thật sâu rộng không, cả kiến thức sách vở và kiến thức thực tế về núi Chiếc Đũa ở ngay tại quê hương ông.
Quan Tế Tửu về quê dạy học
Theo sử chép năm 1740, chúa Trịnh Doanh đã nghi ông về phe với Hoàng Công Phụ để làm phản, gây loạn trong triều. Thế nên bắt giam ông vào ngục để điều tra.
Hoàng Công Phụ vốn là thái giám nhưng lại được chúa Trịnh Giang tin dùng. Khi hoạn quan trong triều ra sức thao túng triều đình thì Trịnh Giang chỉ chú tâm ăn chơi vô độ, bỏ bê việc triều chính, quyền hành dần nằm trong tay Thái giám Hoàng Công Phụ.
Trịnh Giang cho xây nhiều cung quán như Hồ Thiên, Hành cung Quế Trạo, Từ Dương, phủ đệ ở các làng ngoại Tử Dương, Mi Thử. Việc vui chơi xây dựng các cung quan khiến quốc khố cạn kiệt. Trịnh Giang tăng các khoản thuế đồng thời bắt dân lao dịch nặng nề, khiến lòng người oán thán.
Sau 10 năm ở ngôi Trịnh Giang bị sét đánh gần chết, rồi mắc bệnh “kinh quý” – tinh thần bất định, hay hoảng hốt sợ hãi. Liên hệ với việc Trịnh Giang dâm dục vô độ, thậm chí phạm tới cả cung nữ của cha, bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho rằng là bị ác báo: “Đấy là vì dâm dục mà bị ác báo. Muốn không bị hại chỉ có cách là trốn xuống đất.” (Theo “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục”).
Sau đó bọn hoạn quan cho đào đất xây hầm cho chúa ở gọi là cung Thưởng Trì. Từ đó Trịnh Giang ở hẳn dưới hầm này không dám ra ngoài. Hoạn quan Hoàng Công Phụ càng được dịp tác oai tác quái.
Chúa đã ở hẳn dưới hầm, không còn biết việc triều chính, các quan muốn Trịnh Doanh (em của Trịnh Giang) lên thay, nhưng Hoàng Công Phụ ngăn trở nên không làm được gì.
Trước tình cảnh Đàng Ngoài suy thoái bởi Trịnh Giang, Trịnh Thái phi Vũ thị cho tập hợp các quan văn võ nhằm đưa Trịnh Doanh lên ngôi Chúa. Nhân lúc Hoàng Công Phụ đi đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa, ở trong triều các quan đồng loạt đưa Trịnh Doanh lên ngôi, bọn hoạn quan chống lại đều bị diệt sạch.
Khi Trạng nguyên Trịnh Tuệ qua đời, các học trò đã xây dựng nhà thờ để tưởng nhớ thầy. Khi làm đốc học ở Thanh Hóa, nhà bác học Lê Quý Đôn đã đến thăm đền thờ Trịnh Tuệ và quyên góp tiền sửa chữa, khắc biển treo trước đền là “Trạng nguyên từ”.
Năm 1741, chúa Trịnh Doanh xét thấy Trạng nguyên Trịnh Tuệ bị oan nên đã tha bổng và bổ nhiệm ông làm Tế Tửu Quốc Tử Giám. Sau thời gian đào tạo nhân tài tại Quốc Tử Giám, khi giã từ quan trường Trịnh Tuệ trở về quê mở lớp dạy học cho người dân trong vùng. Ông đã bỏ tiền thuê người xây dựng một căn nhà nhỏ để hằng ngày người dân tới học chữ mà không phân biệt giàu nghèo, già trẻ gái trai. Miễn ai có tinh thần học tập là ông dạy miễn phí.
Trải qua thời gian, hiện ngôi nhà năm xưa của Trạng nguyên Trịnh Huệ không còn nữa. Tại vị trí dựng lớp học xưa kia, người dân thay thế bằng chùa Voi. Phía bên cạnh chùa vẫn còn hai chiếc cột đá - là vật dụng năm xưa Trịnh Huệ dùng để treo kẻng gõ tập hợp học sinh đến lớp học.