Lúc sau, trời nổi gió to, mặt sông sóng lớn. Hồ Tông Thốc bình thản đứng trước mũi thuyền đọc thơ: Chẳng phải vua chẳng phải tôi/ Bên sông miếu mạo để thờ ai/ Giang Đông ngày ấy còn chê nhỏ/ Tiền giấy nay sao lại cố đòi?
Ý bài thơ là Hạng Vũ là tôi nước Sở nhưng quyền uy át vua nhỏ. Lúc đánh thua Lưu Bang có người khuyên ông nên đến Giang Đông để chiêu mộ binh sĩ quay lại tranh thiên hạ với Lưu Bang nhưng ông chê Giang Đông đất hẹp, người thưa khó lập đại nghiệp nên ông quay ra tử chiến với Lưu Bang và bị chết, hành động ấy không phải hành động của người trượng phu.
Hồ Tông Thốc ngâm xong tự nhiên gió lặng sóng yên. Kể từ đó, người ta cho biết miếu mất thiêng, thuyền bè qua lại không phải đốt vàng mã lễ bái nữa. Sau đó, Hồ Tông Thốc đến thăm đền thờ Hạng Vũ và có làm bài thơ ca ngợi tính dũng cảm thiện chiến của ông.
Tài năng của Hồ Tông Thốc còn được biểu hiện qua việc sửa thơ Vương Bột - người được tôn là thi bá của Trung Quốc. Chuyện kể rằng, đô đốc Hồng Châu muốn khoe tài văn chương của chàng rể nên mở hội thơ và bảo con rể làm bài “Tựa gác Đằng Vương”, sau đó mới mời khách hạ bút.
Khi mọi người còn do dự, Vương Bột cầm bút hạ ngay bốn câu. Trong đó có hai câu được coi là tuyệt cú: Lạc hà dự cô vụ tề phi/ Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc - nghĩa là: Ráng chiều với cánh cò cô độc cùng bay/ Làn nước thu với bầu trời một màu.
Nhiều năm sau, khi Vương Bột qua đời, người Trung Quốc vẫn thường ngâm hai câu thơ ấy trên mộ ông. Hồ Tông Thốc nghe chuyện ấy, liền nói: “Có gì mà tuyệt cú! Câu nào cũng thừa một chữ. Đã “dự” sao còn “tề”, đã “cộng” sao còn “nhất”?”.
Mọi người vẫn chưa hiểu, ông giải thích: Trong chữ Hán, chữ “dự” với chữ “tề” và chữ “cộng” với chữ “nhất” có nghĩa tương đương nhau. Từ đó, người dân trong vùng không còn ai nghe tiếng ngâm thơ trên mộ Vương Bột nữa.
Hổ phụ sinh hổ tử
Sau khi đỗ Trạng nguyên, ông trở về lấy cô con gái quan thị lang làm vợ và sinh hạ nhiều nhân tài kế tiếp. Con trai của Hồ Tông Thốc là Hồ Tông Đốn và cháu nội là Hồ Tông Thành (con trai của Hồ Tông Đốn) cũng đỗ Trạng nguyên.
Người đương thời ca ngợi gia đình Hồ Tông Thốc là “Lũy thế phương danh chiêu Nhạn Tháp/Nhất gia thịnh sự ích Long Môn” và “Phụ Trạng nguyên, tử diệc Trạng nguyên” - ý nói cha con nhiều đời kế tiếp nhau đỗ Trạng.
Về việc ba thế hệ ông - con - cháu liên tiếp đỗ Trạng nguyên, được nhiều sách, nhiều đời nhắc đến. Tuy vậy, trong “Đăng khoa lục” và các bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám lại không ghi danh. Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng, vì họ là Trại Trạng nguyên - không phải là Kinh Trạng nguyên nên không được khắc tên trên bia Văn Miếu. Tuy nhiên, ý kiến này không thỏa đáng vì năm 1266 đời vua Trần Thánh Tông – Bạch Liêu đỗ Trại Trạng nguyên và vẫn có tên trên bia Tiến sĩ.
Bởi vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng cần bổ sung thêm vào các tư liệu chính thống. Vừa để tôn vinh một sự kiện hiếm có của lịch sử khoa bảng thời phong kiến. Đồng thời, là cách để khẳng định tính chính danh để thế hệ sau biết đến như một minh chứng của truyền thống khoa bảng.
Sau ba đời Trạng nguyên, họ Hồ thời sau cũng liên tục xuất hiện nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng: Hồ Bỉnh Quốc làm đến chức Thị lang, Hồ Sĩ Dương làm đến Thượng thư, Hồ Phi Tích giữ chức Thượng thư, Hồ Sĩ Tân chức Thị chế, Hồ Sĩ Đống chức Thượng thư...
Hồ Tông Thốc tuy chung nguồn gốc dòng tộc với Hồ Quý Ly nhưng có quan điểm khác nhau về vận nước, về việc phò tá vua. Từ năm 1388, nhất là sau khi biết Hồ Quý Ly xúi Thái Thượng hoàng Trần Nghệ Tông bức tử vua Trần Phế Đế, cùng sự kiện Hồ Quý Ly giết hại hàng trăm tôn thất nhà Trần nên ông đã muốn xin nghỉ.
Đến năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, Hồ Tông Thốc lấy lý do tuổi già sức yếu cáo quan về quê Kẻ Cuồi và mất tại đây năm Giáp Thân (1404), thọ 80 tuổi.
Ngoài tài năng xuất chúng về thơ văn, ngoại giao, Hồ Tông Thốc còn là một nhà sử học lớn. Cùng với bộ “Việt sử cương mục”, ông còn viết bộ “Việt Nam thế chí” gồm 2 tập chép 18 đời vua Hùng và thế phả họ Triệu.
Ông cũng là tác giả các tập sách: An Đăng báo ân viện bí minh, Thảo Nhàn hiệu tần thi tập, Phú học chí nam. Tiếc rằng, những tập sách này đã bị nhà Minh tịch thu đem về Kim Lăng trong thời kỳ đô hộ nước ta, nay không còn nữa. May mắn là, gia phả họ Hồ ở Thái Nhã và các tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ, “Hoàng Việt thi tuyển” của Bùi Huy Bích… còn chép được một số bài thơ của ông.