Đến cửa Đại Càn (cửa Cờn, Quỳnh Lưu, Nghệ An), đang vào mùa Đông bỗng nổi gió chướng không thể hành quân, vua Lê Thánh Tông thân vào thắp hương khấn lễ cầu thần linh. Quách Hữu Nghiêm ở trại tả ngạn và tình cờ gặp bà Hồ Thị Thành, vốn dòng hoàng tộc. Được vua gia ân, hai người đã làm lễ thành thân.
Đầu năm Tân Mão (1471), quân Đại Việt đánh vào tận kinh thành Chà Bàn bắt được vua Chiêm là Trà Toàn. Khi đại quân trở về, qua cửa Đại Càn, Quách Hữu Nghiêm được vua cho lưu lại quê ngoại ít ngày.
Duyên trời xui khiến, bà Hồ Thị Thành có tin vui, 9 tháng sau sinh được Quách Quý Công, sau trở thành Anh Kiệt tướng quân và thành tổ chi họ Quách Hữu ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Anh Kiệt tướng quân sau này được cử làm thượng tướng, coi quân cẩm y vệ, luôn hầu giá bên vua.
Năm 1484, Quách Hữu Nghiêm được phong Phó Đô ngự sử Ngự sử đài, sau lại thăng Thái thường tự khanh. Năm 1502, ông được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Minh, không hổ thẹn với triều đình nhà Lê cử ông đi sứ, với tài thi văn và sự hiểu biết thông tuệ, Quách Hữu Nghiêm được Hoàng đế nhà Minh khen ngợi có phong thái bậc người tài thời Tam đại.
Hoàng đế nhà Minh còn ban cho áo đại hồng có thêu con dê thần và đám mây bằng kim tuyến xen chỉ gai tơ sống, cực quý. Với tài ngoại giao của một Chánh sứ Quách Hữu Nghiêm luôn giữ chuẩn mực “Toàn quân mệnh, tráng quốc uy” nghĩa là làm tròn bổn phận bề tôi đối với vua và dùng tài trí của mình, trọng trách vua ban để làm tăng thế nước và ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được vua Lê trao cho.
Theo “Lịch triều hiến chương loại chí” lần đi sứ nhà Minh của Quách Hữu Nghiêm là để tạ ơn mũ áo mà hoàng đế nhà Minh ban tặng cho vua Lê Hiến Tông tiếp tục “bồi đắp hòa khí, dập tắt chiến tranh”. Mãn hạn đi sứ về đến Đại Việt, Quách Hữu Nghiêm liền được vua Lê trọng đãi, phong chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đô ngự sử.
Từ đường họ Quách tại xã Thái Phúc - nơi thờ 2 nhà khoa bảng Quách Đình Bảo và Quách Hữu Nghiêm. |
Cùng với anh trai mình, Quách Hữu Nghiêm luôn nuôi một hoài bão lớn là tập trung sức lực, đào tạo nhân tài cho đất nước. Thi cử và giáo dục luôn là những việc chính thu hút ông. Ông luôn quan tâm tới trung tâm đào tạo nhân tài của đất nước là Quốc Tử Giám.
Trong cuộc đời làm quan, ông được cử làm đề điệu (Chánh chủ khảo) các khoa thi đình năm Canh Tuất (1490), Quý Sửu (1493), Bính Thìn (1496). Năm 1484, ông đã tâu với vua Lê Thánh Tông và được chấp thuận về việc cải cách chế độ học bổng với học sinh Quốc Tử Giám.
Theo giới nghiên cứu, nếu như Quách Đình Bảo có công dựng 10 tấm bia đề danh Tiến sĩ từ khoa thi 1442 đến 1484, đồng thời đề nghị nhà vua cho thay đổi danh xưng các vị đỗ đạt. Quách Hữu Nghiêm lại có công đầu trong việc đặt nền móng chế độ học bổng, khuyến học nhằm tìm tòi và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Đánh giá về khoa cử thời Lê Thánh Tông (Hồng Đức), sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú ghi: “Khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau này không thể theo kịp”.
Không dừng lại ở lĩnh vực giáo dục khoa cử, với chức trách làm việc ở Ngự sử đài, Quách Hữu Nghiêm nổi tiếng trung thực nói thẳng, giám sát và xét thật công bằng việc của trăm quan trước mặt nhà vua.
Ngoài vai trò quan đại thần và nhà giáo dục, Hoàng giáp Quách Hữu Nghiêm còn nổi tiếng hay chữ. Trong đợt đi sứ nhà Minh năm 1502, khi sắp về nước sứ ta vào bệ kiến vua Minh để tạ từ, nhân nhìn thấy trên sân rồng ánh nắng chiếu qua cái lọng bị thủng lỗ, vua Minh đã ra câu đối rằng: Ốc lậu nhật xuyên hình như kê noãn tam tam tứ tứ (Nhà thủng mặt trời xuyên qua, hình như trứng gà ba ba bốn bốn).
Lễ tế Hoàng giáp Quách Hữu Nghiêm nhân ngày kỵ 9/9 hàng năm. |
Quách Hữu Nghiêm đối lại: Giang trường phong lộng thế tự long lân điệp điệp trùng trùng (Sông lớn gió thổi giống như vẩy rồng trùng trùng điệp điệp). Vua Minh thấy ông đối chỉnh ý, chỉnh chữ mà hùng khí lẫm liệt, ngợi khen hết lời.
Tương truyền, khi đi sứ nhà Minh về tới Thăng Long, để động viên Hoàng giáp Quách Hữu Nghiêm, vua Lê Hiển Tông giữ ông ở lại kinh thành 2 tháng rồi cho phép về thăm quê. Về tới bến Côn Giang, theo lời dặn của vua nhà Minh, ông mở chiếc hòm quý ra thấy trong có 4 chữ bằng bạch kim “Côn Giang lão nhân”, tự nhiên ốm mà mất...
Về sự kiện này, có giai thoại kể rằng, Quách Hữu Nghiêm là người sống phóng khoáng, rất có tài biện luận. Khi đi sứ Trung Quốc, ông chơi thân với một thầy Tàu giỏi tử vi, đẩu số. Lúc Quách Hữu Nghiêm về nước, người ấy trao cho một phong thư và bảo: Về đến nhà hãy mở ra xem.
Tới kinh sư, Quách Hữu Nghiêm mở thư thì chỉ thấy có một mảnh giấy, ghi rõ ngày mất và câu đề tiếp là ông sẽ được làm Thành hoàng xã Thuyền Quan. Huyện ấy sẽ lập miếu thờ ở bến sông. Quách Hữu Nghiêm không thích lời sấm ấy nhưng quả là ông về nước ít lâu thì mất, sau thường hiển linh ở xã Thuyền Quan.
Gia phả họ Quách làng Phúc Khê chép: “…Trên đường về thăm quê đến ngã ba sông Cun thuộc làng Thiên Quan thì mất ở đó…”. Làng Thiên Quan (xã Thái Hà, huyện Thái Thụy ngày nay) thương xót vị quan tài ba, đức độ nên lập đền thờ tại ngã ba sông Cun. Vua Lê vô cùng thương xót ban cho dân làng Thiên Quan 54 mẫu ruộng để thờ phụng, hương khói và ban tặng gia tộc họ Quách bức đại tự “Thi lễ truyền gia”. Đại tự nay vẫn được treo tại từ đường họ Quách ở làng Phúc Khê.