Sau khi ông về trí sĩ được vua ban cho một cây cờ gấm, ngự chế 6 câu đối và một bài thơ vinh quy. Gia phả dòng họ Lê Sỹ còn ghi lại, trong đó có những câu như: Phụ tử đồng triều phu cộng khánh/ Quân thần tương hội ích hoàng công (Cha con đồng triều phúc vui chung/ Vua tôi đồng hội thêm cương trọng); Thiên tải huân danh thự trúc bạc/ Nhất môn quý thịnh hách quan thân (Sự nghiệp ngàn năm lưu sử sách/ Quý quyền một họ rạng quan thân). Sau khi ông mất được truy tặng chức Tả thị lang bộ Binh, tước hầu.
Lê Văn Hy (sinh năm 1631), sau đổi thành Lê Thuần Hy thi Hương đỗ giải Nguyên, 29 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659) đời Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu thảo.
Lê Chí Đạo (sinh năm 1624), cha Lê Chí Tuân đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân năm 1685. Năm 36 tuổi thi đỗ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659) đời Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Giám sát, Tham chính.
Đỗ Công Liêm (sinh năm 1631), năm 41 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670) đời Lê Huyền Tông. Ông làm quan đến chức Cấp sự trung.
Lê Sĩ Cẩn (sinh năm 1643), cha Lê Sỹ Triệt, cháu tằng tôn Lê Nghĩa Trạch. Năm 36 tuổi thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thân niên hiệu Vĩnh Trị 5 (1680) đời Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Tham chính, thăng Tự Khanh, tước nam.
Người cuối cùng là Lê Chí Tuân (sinh năm 1649), năm 37 tuổi đỗ khoa sĩ vọng, Đệ tam giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Hòa 6 (1685) đời Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ.
Đền thờ ba Tiến sĩ họ Lê tại xã Hoàng Giang. |
Trong số 11 nhà khoa bảng, Hoàng Giang tự hào có những dòng họ kế thế đăng khoa. Nổi tiếng trong vùng là họ Lê Sỹ có nhiều người đỗ đạt, thành danh. Người đỗ đại khoa đầu tiên của dòng họ là Lê Nghĩa Trạch, tuy nhiên, người đặt nền móng cho khoa bảng dòng họ lại là cụ Lê Chính Xác (1510 – 1583). Năm 31 tuổi thi tam trường đậu phó bảng. Cụ vốn là người thông minh, thông thiên văn, tường địa lý, được triều đình nhà Lê phong tặng “Kiệt tiết tuyên lực công thần”.
Lê Nghĩa Trạch chính là con trai của cụ, năm 30 tuổi thi Hội đậu Tiến sĩ đồng xuất thân nhậm chức Hàn lâm (1564). Ông là vị Tiến sĩ đầu tiên của dòng họ, làm quan dưới thời vua Lê Gia Tông, do có nhiều công lao được phong tới Binh bộ Thượng thư.
Khoa thi Canh Thân 1640, cháu ruột cụ Lê Nghĩa Trạch là Lê Sỹ Triệt thi Hội đậu đồng Tiến sĩ xuất thân nhậm chức Hàn lâm tiến triều. Nhiều năm ở chốn biên thùy, ông góp công lớn trong việc khôi phục, giữ gìn, mở mang bờ cõi cho đất nước, được tiến triều nhậm chức Đô Ngự sử, sau phong là Dực Bảo Trung Hưng thượng đẳng thần, là một trong những trụ cột triều đình.
Năm 1868, ông mất tại quê nhà, thọ 75 tuổi. Khi mất, ông được triều đình ban điếu lễ và 100 quan tiền, được các quan về dụ tế. Ông là người văn võ song toàn, cuộc đời gắn bó với biên cương, một thời cùng cha là Lê Nhân Giáp làm quan trong triều.
Văn bia ghi chép công lao, danh thứ người đỗ đạt của dòng họ Lê Sỹ tại đền thờ ba Tiến sĩ họ Lê. |
Năm 17 tuổi, Lê Sỹ Cẩn - con trai Lê Sỹ Triệt thi Hương đậu tứ trường ra làm quan, năm 1670 là Tham nghệ xứ Hải Dương. Năm 1672 đi dẹp giặc Thuần Quảng cùng cha chung một chiến hào đánh giặc. Năm Canh Thân 1680, khi Lê Sỹ Cẩn 38 tuổi mới về thi Hội, đậu Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, phụng lệnh đi dẹp giặc ở nhiều nơi, có công lớn được phong chức Tham tri Bộ binh và thủy binh.
Năm 1714, Lê Sỹ Cẩn cùng em là Lê Sỹ Tuyền lập gia phả khắc tên tổ tiên lên tấm bia đá 4 mặt đưa về tiền đường tại làng Phù Huệ, xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống.
Với truyền thống nối tiếp nhau đỗ đạt có nhiều công lao trong bảo vệ giang sơn và chấn hưng đất nước, để ghi nhớ công ơn của một dòng họ đại khoa, năm 1680 vua Lê Thần Tông ban câu đối thêu trên gấm: “Tiến sĩ ba đời lừng đất Việt/ Công hầu một họ ánh trời Nam”.
Hiện nay, đền thờ 3 đời Tiến sĩ họ Lê nằm ở thôn Phù Huệ, xã Hoàng Giang, bên cạnh đó là văn bia 3 đời Tiến sĩ, ghi chép công lao, danh thứ người đỗ đạt, về phả hệ nhà họ Lê làm quan.
Cùng với dòng họ Lê Sỹ, ở Hoàng Giang còn có họ Đỗ với người khai khoa là Đỗ Phi Tần, đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn (1544), em trai là Đỗ Tất Đại đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân khoa Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình 6 (1554) đời Lê Trung Tông. Tiếp đến Đỗ Tế Mỹ (con trai Đỗ Tất Đại) đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Trị 8 (1565). Đây là trường hợp hiếm có dưới thời phong kiến - trong một gia đình có 3 người đỗ đại khoa anh em, bố con liền đời.