Tuy nhiên, hồ Nyos lại vô cùng tĩnh lặng và ít chịu ảnh hưởng của biến động môi trường. Thay vì giải phóng CO2, hồ nước đóng vai trò như một kho trữ khí áp suất cao. Tầng nước dưới sâu ngày càng tích tụ nhiều khí hơn cho đến khi mỗi lít nước hòa tan hơn 5 lít CO2. Lượng khí bị dồn nén tới mức cực hạn biến hồ Nyos thành “quả bom hẹn giờ”.
Nước hồ Nyos chuyển từ xanh ngắt sang đỏ và đục ngầu sau tiếng nổ lớn. Ảnh: Wired
Vào thời điểm xảy ra sạt lở, CO2 dưới đáy hồ dâng lên cao và bắn ra khỏi mặt nước. Khoảng 1,2 km3 khí CO2 được giải phóng trong vòng 20 giây hình thành một đám mây cao khoảng 100m và tỏa ra xung quanh.
Khi đám mây khí CO2 bao trùm, mọi ngọn lửa đang cháy đều bị tắt, bầu không khí ảm đạm trải rộng quanh hồ Nyos. Người dân sinh sống tại các ngôi làng ven hồ gần như không có cơ may sống sót. Trong số 800 cư dân, chỉ có 6 người may mắn thoát khỏi thảm họa do nhanh chóng chạy lên vùng đất cao hơn bằng xe máy.
Đám mây khí CO2 lan rộng và xa, cướp đi sinh mạng của những người ở cách hồ tới 25km. Các dân làng trong khu vực bước ra ngoài nhà xem xét tình hình bị ngạt thở bởi đám mây khí tràn đến và tử vong ngay trước cửa nhà. Những người nằm ngủ trưa cũng thiệt mạng trong khi người thân của họ chưa hiểu chuyện gì xảy ra do mật độ khí CO2 ở mặt đất đủ đậm đặc để gây chết người.
"Tôi không thể nói. Tôi rơi vào trạng thái mất ý thức. Tôi không thể mở miệng bởi sau đó tôi ngửi thấy thứ gì đó rất khó chịu. Tôi nghe thấy tiếng con gái ngáy một cách bất thường. Khi tới được giường con gái, tôi quỵ ngã. Tôi muốn cất tiếng nói nhưng hít thở không thông. Con gái tôi đã chết", Joseph Nkwain, một trong những người sống sót kể lại.
Nỗ lực tìm cách ngăn chặn thảm họa tái diễn
Sau khi phát hiện nguyên nhân thực sự khiến hơn 1.700 người tử vong, hồ Nyos đã được các nhà khoa học và chức trách giám sát nghiêm ngặt. Các nhà khoa học đã mất 10 năm để tìm ra cách làm hồ Nyos thoát khí CO2 an toàn trước khi lại có một thảm họa tương tự xảy ra.
Theo đó, họ nhất trí kế hoạch thả một ống có đường kính 13 cm xuống độ sâu 182m, ngay trên đáy hồ. Khi nước ở đáy hồ được bơm lên đỉnh ống, khí CO2 thoát ra trên đầu ống, bắn nước và khí lên cao tới 45m. Hiệu ứng ống khói sẽ kích hoạt phản ứng liên tục cho đến khi CO2 bốc hết.
Ống đầu tiên được lắp đặt và thử nghiệm năm 1995. Nhận thấy ống hoạt động an toàn, các nhà khoa học đã lắp một ống cố định năm 2001. Đến năm 2006, chiếc ống vẫn hoạt động và đưa gần 20 triệu m3 CO2 vào không khí mỗi năm.
Các nhà khoa học đã mất 10 năm để tìm ra cách làm hồ Nyos thoát khí CO2 an toàn. Ảnh: smithsonianmag
Trong thời gian từ năm 2001 - 2006, lượng khí CO2 trong hồ Nyos đã giảm 13% nhưng các nhà khoa học cho rằng mức giảm này quá ít. Hồ Nyos vẫn còn một lượng CO2 nhiều hơn lượng đã bốc lên trong thảm họa năm 1986.
Đáng lo ngại, con đập tự nhiên ở phía bắc hồ Nyos đang bị xói mòn và có thể sập trong 5 năm. Đập vỡ có thể khiến 50 triệu m3 nước tràn ra từ hồ, nhấn chìm tới 10.000 người khi tràn qua các thung lũng bên dưới. Tuy nhiên, thảm họa vỡ đập mới chỉ là khởi đầu.
Nếu hồ Nyos mất đi lượng nước lớn như vậy, mực nước có thể giảm tới 40m. Áp lực nước giữ khí CO2 ở lại đáy hồ không còn, nguy cơ xảy ra một đợt phụt khí CO2 kinh hoàng hơn vụ năm 1986.
Trước tình hình đó, giới khoa học gấp rút thực hiện giải pháp vừa gia cố đập tự nhiên bê tông vừa lắp thêm 4 ống hút nữa để giảm lượng CO2 về mức an toàn.