Chuyện thú vị về Trạng Quét

Trần Hoà | 11/06/2023, 09:53
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Nhà nghèo phải làm nghề quét rác để sống qua ngày nên khi đỗ Tiến sĩ, dân gian yêu mến gọi ông là Trạng Quét.

Lê Quát theo gương thầy, nhiều lần đưa ra các quyết sách nhằm thay đổi, phê phán những tiêu cực nhưng vua không chấp nhận, bản thân ông cũng bị trách mắng. Tuy giữ chức vụ cao, nhưng không để công việc hạn chế những suy nghĩ và ý tưởng phóng khoáng của mình.

Lê Quát luôn mong muốn chấn hưng Nho giáo. Tuy nhiên, triều đại nhà Trần bấy giờ đã bắt đầu suy yếu, vua không nghe lời can gián của ông. Cho đến khi qua đời, ông vẫn không thể hoàn thành tâm nguyện và ra đi trong ngậm ngùi.

Danh sĩ thời Nguyễn là Phan Huy Chú nhận xét về Lê Quát thế này: Chí ông chuộng chính học bài dị đoan. Do văn học mà (ông) được làm quan cùng nổi tiếng ngang với Phạm Sư Mạnh. Thời bấy giờ người ta đều khen “Lê, Phạm”.

GS Nguyễn Huệ Chi nhận định: Qua bảy bài thơ còn lại, có thể thấy ông là người phóng khoáng, không lấy việc làm quan làm một sự ràng buộc hành vi và tư tưởng...

Đôi khi sau một đôi nét chấm phá đơn sơ mà sắc sảo về cảnh vật, nhà thơ hé cho ta thấy những nỗi cô đơn, sầu muộn đang làm xao xuyến lòng ông. Nó là cái buồn của cả một thế hệ sĩ phu cảm thấy triều đại nhà Trần đang không cưỡng lại được sự suy sụp.

Ở mặt khác, Lê Quát cũng là một nhà Nho hết lòng vì đạo, muốn ra sức đẩy lùi ảnh hưởng của Phật giáo để dành cho Nho giáo một vị trí trong đời sống tinh thần... Và bài bia ký ở chùa Thiệu Phúc mang tiếng là bài Phật ấy, thực chất chỉ là một lời tự thú về cái bất lực của một tín đồ nhà Nho trước cảnh hiu quạnh, tiêu điều của môn phái mình...

Nhưng nói chung, dù mỏi mệt chán nản, hay cố giữ tư thế tích cực của một mẫu người nhập cuộc; cảm hứng chung toát ra từ nghệ thuật thơ văn của Lê Quát vẫn là một cảm hứng trong sáng chứ không gò gẫm nặng nề.

Lòng yêu đất nước đã giúp nhà thơ tạo được một bút pháp tả cảnh sinh động: Cảnh quyện lấy tình; và cái nét nhẹ nhõm, hài hòa trong thơ ông cũng là phong cách chung của văn học của cả thời đại.

Hổ phụ sinh hổ tử

Chuyện về Trạng Quét ảnh 3
Lê Giốc - con trai Lê Quát hiên ngang đứng giữa gươm giáo quân thù mà chửi. Ảnh minh họa: INT

Con trai Lê Quát là Lê Giốc, làm quan trải đến chức Thượng thư hữu bật nhập nội hành khiển. Theo tài liệu “Bản xã tiên hiền” và “Lê gia chính phả” thì Lê Giốc học giỏi, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi (1331), triều vua Trần Hiến Tông. Sách “Đại Việt lịch triều đăng khoa lục” lại viết ông đỗ Thái học sinh khoa thi năm Giáp Tuất (1334).

Thời vua Trần Nghệ Tông, Lê Giốc làm Tuyên phủ sứ Nghệ An. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, thời gian đó quân Chiêm Thành liên tiếp đánh ra Bắc, quân nhà Trần bại trận. Sau khi em Trần Nghệ Tông là Trần Duệ Tông bị tử trận năm 1377 khi đi đánh Chiêm tại Chà Bàn, thế lực nhà Trần càng yếu hơn.

Cũng trong năm đó, Chế Bồng Nga lại đánh ra Nghệ An, lập hoàng thân Ngự Câu vương Trần Húc (đầu hàng trong trận Chà Bàn) làm vua. Tháng 6 (âm lịch) năm 1378, quân Chiêm đánh vào sông Đại Hoàng rồi đánh vào kinh thành Thăng Long. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mang vua cháu Trần Phế Đế (con Duệ Tông) bỏ chạy.

Lúc bấy giờ Lê Giốc đang giữ chức Kinh doãn tại kinh thành, bị quân Chiêm bắt được. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú chép: “...Nhiều người theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo lạy, ông cả giận nói: “Tao là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man à?” (Rồi) chửi không ngớt miệng, bị giặc giết. Về sau, triều đình gọi (ông) là “mạ tặc trung vũ hầu” (nghĩa là ông hầu trung dũng chửi giặc).

Nhà sử học đời Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên đã khen ngợi Lê Giốc: Bỏ sống để giữ nghĩa còn hơn là sống, cầu sống mà chịu nhục người quân tử không làm. Kinh Dịch nói: Người quân tử thà hy sinh tính mạng để thực hiện chí hướng của mình, Giốc là người như vậy”.

Thời nhà Nguyễn, nhà sử học Phan Huy Chú xếp Lê Giốc vào nhóm 7 bề tôi tiết nghĩa đời Trần. Và vua Tự Đức cũng có thơ vịnh Lê Giốc: Đời mạt văn tàn võ chẳng trau/ Quân thua một trận thật là đau/ Chỉ đem tấc lưỡi la quân giặc/ Để tiếng ngàn thu “Mạ tặc thần”.

Ở làng Kẻ Rỵ có đền thờ Lê Giốc, người dân nơi đây từ lâu đã tôn ông làm Tiên hiền với duệ hiệu là Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, Mạ tặc trung vũ hầu Lê tướng công. Trong đền thờ có đôi câu đối: Mạ tặc trung thần thanh vạn đại/ Thướng thiên ánh tuyết bạch tam quan (nghĩa là: Trung thần chửi giặc tiếng lưu vạn đại/ Ánh hào quang trên trời vẫn rọi chiếu cửa đền).

Ngoài ra, theo “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” thì Lê Giốc còn được sắc phong là phúc thần và có miếu thờ ở ven sông Đại Hoàng.

Đương thời, Lê Quát có sáng tác thơ văn, nhưng nay chỉ còn 7 bài thơ trong “Tinh tuyển chư gia luật thi” và “Toàn Việt thi lục”. Trong đó có các tác phẩm: Cưu trượng, Đăng cao, Đồng hổ, Nhạn túc đăng, Thư hoài 1, Thư hoài 2, Tống Phạm công Sư Mạnh bắc sứ. Ngoài ra, bài văn bia “Bắc Giang Bái thôn Thiệu Hưng tự bi ký” được ghi chép trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.

Bài liên quan
Cái chết oan khuất của Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật
Nguyễn Quang Bật được thần báo mộng sẽ không đỗ cao, nhưng ông cho rằng “nhân định thắng thiên”, và cuối cùng đã đỗ Trạng nguyên.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Chuyện thú vị về Trạng Quét