Tác dụng nhuận tràng: Nhân hạt mận 10g, đào nhân 10g, hạnh nhân 10g, tất cả cho vào ấm đổ 700ml, sắc còn 250, chia 2 lần uống trong ngày, dùng liền 10 ngày.
Chữa đau nhức xương khớp khi thời tiết thay đổi: Lá mận 50g, lá thài lài tía, lá đào, lá si, lá dâm bụt mỗi thứ 30g, tất cả rửa sạch, giã nhỏ, sao vàng ngâm với rượu 10 - 15 ngày, dùng rượu này xoa bóp chỗ đau ngày 2 lần.
Làm đẹp da mặt: Quả mận tươi 250g, rửa sạch, bỏ hạt, giã nát, ép lấy nước rồi hoà với 250ml rượu gạo, đựng trong lọ kín để dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10 - 20ml. Trường hợp mặt bị sạm đen, bột nhân hạt mận nghiền mịn trộn với lòng trắng trứng đắp ngày 1 - 2 lần trong 5 - 7 ngày.
Chữa các bệnh sốt cao, kinh giật ở trẻ em, giảm ho, điều trị vết thương: Lá mận (lý thụ diệp) khô 8-12g, sắc uống, dùng ngoài nấu lấy nước, bỏ bã tắm cho trẻ hoặc giã lấy nước cốt lá mận tươi thấm vào chỗ sưng đau.
Dụng thanh nhiệt giải độc, dùng trong các chứng đái buốt, đái dắt do thấp nhiệt, các trường hợp đi lỵ ra máu, bệnh tiêu khát, trẻ em sốt nóng, mụn nhọt: Rễ mận (lý căn) 8-12g, sắc uống. Dùng ngoài sao tồn tính, nghiền thành bột, đắp hoặc rắc lên vết đau.
Thanh nhiệt, giải trừ uất nhiệt, chữa tiêu khát, tâm phiền, các trường hợp khí hư, đau răng, lở loét: vỏ rễ mận (lý căn bì) 8-12g, sắc uống, có thể sắc đặc ngậm rồi nuốt hoặc lấy nước thấm đắp bên ngoài nơi sang lở.
Theo bác sĩ Vũ, mận có nhiều chất dinh dưỡng, lại có chức năng chữa bệnh, nhưng người tỳ vị yếu, đi ngoài lỏng, thận hư, di tinh, phụ nữ có thai không nên dùng.
Lưu ý: Mận có nhiều công dụng tốt cho sức khoẻ, tuy nhiên người dân cần tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng làm thuốc để không gây hại cho sức khoẻ.