Theo báo cáo mới đây của Ookla (một công ty chuyên về phân tích và đo lường hiệu suất Internet), tốc độ tải xuống trung bình di động của Việt Nam đạt 152,17 Mbps – gần gấp 3 lần so với năm 2024. Bước nhảy này đã đưa Việt Nam lên vị trí thứ 16 toàn cầu, tăng 26 bậc.
Sau hơn 1 năm Việt Nam tổ chức thành công cuộc đấu giá tần số đầu tiên - dấu mốc hỗ trợ mục tiêu phát triển hạ tầng số hiện đại, băng thông siêu rộng, độ phủ rộng khắp, xanh, an toàn, với 5G đạt 99% vùng phủ sóng vào năm 2030 và đến 2025 tốc độ 5G trung bình đạt 100 Mbps, đến nay, Việt Nam đã tăng hạng đáng kể trong bảng xếp hạng tốc độ internet di động của Ookla.
Quy hoạch phổ tần, chiến lược định giá và các chính sách khuyến khích có mục tiêu rõ ràng của Việt Nam cũng mang lại những kinh nghiệm cho một số quốc gia đang tìm cách đẩy nhanh phát triển hạ tầng số.
Ông Lê Văn Tuấn, Cục trưởng Cục Tần số vô tuyến điện, Bộ KH&CN đã có những chia sẻ với Báo Điện tử Chính phủ xung quanh nội dung này.
Thưa ông, khi cấp các băng tần 700 MHz, 2,6 GHz và 3,5 GHz ở nước ta, những nguyên tắc nào đã định hướng cách tiếp cận của Việt Nam và làm thế nào để bảo đảm rằng các cuộc đấu giá có thể giúp cải thiện khả năng kết nối?
Ông Lê Văn Tuấn: Để đạt được mạng 5G tốc độ cao, phủ sóng rộng khắp, điều quan trọng là phải cung cấp cho các nhà khai thác quyền truy cập vào cả băng tần trung bình và băng tần thấp.
Các nhà khai thác cần ít nhất 100 MHz phổ tần trung để cung cấp dịch vụ 5G chất lượng cao. Để làm được điều này, Việt Nam đã xây dựng một lộ trình phổ rõ ràng và một kế hoạch sắp xếp lại các hệ thống thông tin vô tuyến cụ thể. Tổng cộng, Việt Nam có được 660 MHz băng tần trung bình sẵn sàng để sử dụng (90 MHz tại 2,3 GHz, 190 MHz tại 2,6 GHz, và 380 MHz tại 3,8 GHz). Đạt được con số này không phải là một việc đơn giản.
Ví dụ, Việt Nam ban đầu phân bổ băng 2,6 GHz theo cấu hình FDD với các khối nhỏ 2x20 MHz, tương tự như hầu hết các quốc gia. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của 5G, sau khi thảo luận sâu rộng với các bên liên quan, Bộ KH&CN đã quyết định chuyển sang cấu hình TDD với kích thước khối lớn hơn (90–100 MHz) để bảo đảm sẵn sàng cho 5G.
Tương tự, việc quy hoạch lại băng tần C yêu cầu phải di dời nhiều trạm VSAT và TVRO sang băng Ku hoặc phần trên của C-band (4,0–4,2 GHz), hoặc thay thế truyền dẫn vệ tinh bằng giải pháp cáp quang. Để giảm thiểu rủi ro nhiễu, Bộ KH&CN cũng đã phát triển các bộ lọc tùy chỉnh, giá hợp lý nhưng có tiêu chuẩn bảo vệ cao hơn so với loại có sẵn trên thị trường.
Đáng chú ý, thay vì chia băng tần thành các khối nhỏ 10–20 MHz để đấu giá – như thường thấy ở nước khác – Bộ KH&CN lựa chọn phân chia thành các khối 100 MHz. Cách tiếp cận này bảo đảm rằng các nhà khai thác trúng đấu giá có thể triển khai mạng 5G ở quy mô lớn và chất lượng cao.
Ở băng tần thấp, việc quy hoạch lại băng tần 700 MHz là rất cần thiết đối với vùng phủ sóng 5G diện rộng và xuyên sâu indoor ở đô thị lớn. Nhiều năm trước, Việt Nam đã hoàn thành chương trình số hóa truyền hình, qua đó hoàn thành giải phóng băng tần này. Băng 700 MHz đã chứng minh tính hiệu quả trong việc mở rộng vùng phủ 4G và 5G, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và dọc theo các hành lang giao thông chính.
Như vậy, việc cung cấp 100 MHz băng tần trung bình và các khối 2x10 MHz ở băng 700 MHz đã giúp cải thiện đáng kể hiệu năng băng rộng di động của Việt Nam.
Mặc dù thương mại hóa 5G của Việt Nam diễn ra tương đối muộn so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới nhưng tốc độ tải xuống trung bình di động của Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể chỉ sau một năm triển khai.
Theo báo cáo tháng 8/2025 của Ookla, tốc độ tải xuống trung bình di động của Việt Nam đạt 152,17 Mbps – gần gấp 3 lần so với 56,95 Mbps vào tháng 8/2024. Bước nhảy này đã đưa Việt Nam lên vị trí thứ 16 toàn cầu, tăng 26 bậc. Đáng chú ý, Viettel nằm trong số 3 nhà khai thác hàng đầu thế giới về tốc độ internet di động, VNPT đứng thứ hai toàn cầu về tốc độ tải xuống 5G.
Giá khởi điểm đấu thấu được cho là đặt ở mức phải chăng và chúng ta mong muốn đạt được kết quả nào với cách tiếp cận này, thưa ông?
Ông Lê Văn Tuấn: Chi phí tần số có tác động trực tiếp đến đầu tư mạng lưới và cuối cùng là chất lượng dịch vụ. Các nghiên cứu quốc tế chỉ ra rằng, khi chi phí tần số vượt quá 10% doanh thu hằng năm của một nhà khai thác, đầu tư vào mạng lưới sẽ giảm, dẫn đến chất lượng dịch vụ suy giảm.
Ngược lại, khi chi phí tần số duy trì dưới 5%, các nhà khai thác tiếp tục đầu tư mạnh, dẫn đến chất lượng dịch vụ được cải thiện. Thực tế, các mạng di động chất lượng tốt nhất nằm ở những quốc gia - nơi mà chi phí tần số được giữ dưới 5% doanh thu hằng năm.
Trên cơ sở nghiên cứu này, Việt Nam đã điều chỉnh chính sách về giá khởi điểm. Theo đó giá khởi điểm được giảm đáng kể để đảm bảo chi phí tần số của các nhà mạng là ở mức vừa phải.
Sau các cuộc đấu giá, chi phí tần số đối với các nhà khai thác Việt Nam hiện chiếm khoảng 6% hoặc thấp hơn so với doanh thu hằng năm. Dựa trên kinh nghiệm này, Việt Nam đã đề xuất xây dựng một báo cáo của APT về chi phí phổ tần để chia sẻ những bài học kinh nghiệm và khuyến khích các quốc gia khác áp dụng mô hình định giá hợp lý.
Các kết quả đấu giá có được chuyển hóa để tạo một thị trường 5G cạnh tranh và phát triển nhanh chóng không, thưa ông?
Ông Lê Văn Tuấn: Tất nhiên là có.
Thứ nhất, Bộ KH&CN đã đấu giá cả băng tần 2,6 GHz và 3,8 GHz, thay vì giới hạn chỉ một băng. Các giá trị khác nhau của những băng tần này – đặc biệt là băng 2,6 GHz, hỗ trợ cả triển khai mới 5G và cải thiện 4G – thúc đẩy cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà khai thác mong muốn giành được những khối băng tần 100 MHz có giá trị cao này.
Thứ hai, để đủ điều kiện tham gia, các nhà khai thác được yêu cầu phải cam kết nghĩa vụ triển khai mạng, bao gồm việc triển khai một số lượng nhất định trạm gNodeB và eNodeB (với 2.6 GHz) trong hai năm đầu. Những điều kiện này bảo đảm rằng, các nhà khai thác thắng đấu giá có nghĩa vụ thực hiện các mục tiêu về phủ sóng và chất lượng.
Thứ ba, việc chuyển nhượng phổ tần bị hạn chế trong 5 năm đầu sau đấu giá. Chính sách này ngăn chặn đấu giá để đầu cơ và bảo đảm rằng các nhà khai thác thực sự đầu tư vào triển khai mạng lưới thay vì coi phổ tần là một tài sản để giao dịch.
Thưa ông, bên cạnh các cuộc đấu giá tần số, chúng ta còn những chính sách nào đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kết nối 5G?
Ông Lê Văn Tuấn: Ngoài việc có phổ tần đầy đủ và hợp lý, các nhà khai thác phải triển khai một số lượng lớn gNodeB để cung cấp dịch vụ 5G tốc độ cao, phủ sóng rộng. Nhận thấy điều này, Việt Nam đã đưa ra các chính sách khuyến khích tài chính để thúc đẩy nhà mạng triển khai nhanh.
Theo Nghị quyết 193 được Quốc hội thông qua, các nhà khai thác triển khai hơn 20.000 trạm gNodeB mới trong năm 2025 sẽ được "thưởng" tương đương 15% chi phí mua thiết bị. Chính sách này đã thúc đẩy mạnh mẽ các nhà khai thác mở rộng mạng 5G nhanh chóng sau khi trúng đấu giá, góp phần vào sự thăng hạng ấn tượng của Việt Nam trong bảng xếp hạng băng rộng di động toàn cầu.
Xin cảm ơn ông!