“Từ nay người biết thương người”…
Nhưng có lẽ vinh dự lớn nhất trong sự nghiệp cầm bút của nhà thơ Anh Ngọc là với tư cách phóng viên Báo Quân đội Nhân dân, ông cùng đồng đội lên đường vào Nam từ cuối tháng 1/1975 trong không khí hừng hực, khí thế của quân và dân cả nước. Ông kể, ông cùng những phóng viên của báo đi từ Hà Nội, một tháng rưỡi cả ngồi ô tô lẫn đi bộ trên đường Trường Sơn, được ăn Tết ở Ngã ba Đông Dương, rồi cùng bộ đội chủ lực vào giải phóng thị xã Phan Thiết.
“Đến trưa 30/4/1975, khi nghe tin Sài Gòn giải phóng, chúng tôi đang ở Phan Rang đã ngay lập tức tiến về Sài Gòn. Chiều tối hôm sau (1/5) đã có mặt ở Sài Gòn. Ăn cơm xong, chúng tôi lập tức tới Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn, ngủ đêm tại đó. Đó là đêm đầu tiên chúng tôi nằm ở Sài Gòn sau mấy tháng trời chui rúc trong rừng. Vì điều kiện mới tiếp quản còn nhiều nguy hiểm, đơn vị được hạ lệnh võng ngoài vườn hoa. Chính cái khoảnh khắc giao thời ấy đã cho tôi rất nhiều cảm hứng sáng tác. Nhiều bài viết tại Sài Gòn, đến giờ, vẫn là tác phẩm tôi vô cùng ưng ý như Mắc võng ở Sài Gòn khắc họa tâm trạng người lính buổi giao thời chiến tranh và hòa bình, đặc biệt là Sài Gòn đêm giao hưởng mở ra sự hòa hợp dân tộc, Bắc - Nam chung một nhà thông qua cầu nối âm nhạc”, nhà thơ Anh Ngọc nhớ lại.
Trong câu chuyện với tôi, nhà thơ Anh Ngọc đặc biệt nhấn mạnh đến đêm giao hưởng tại Sài Gòn sau ngày giải phóng không lâu. Đêm giao hưởng Sài Gòn là một sự kiện văn hóa đã đem lại sự ngạc nhiên, hứng khởi mà mến phục của nhiều khán giả, trong đó có những người chiến sĩ. Đêm nhạc đã được phóng viên Đài BBC nhận xét: “Khi chúng tôi nghe bản giao hưởng của Beethoven vang lên, cứ ngỡ là từ một băng nhạc ở một căn nhà nào đó, không ngờ là của đoàn giao hưởng Hà Nội vào biểu diễn trong thành phố này… Các ông không chỉ có sức mạnh quân sự, mà còn có một nền văn hóa tiên tiến. Như vậy, các ông giành chiến thắng là lẽ đương nhiên!”.
Là người ngồi xem trên khán đài, cũng như nhiều khán giả khác, trong lòng Anh Ngọc trào dâng nỗi niềm cảm xúc và đó cũng là chất liệu để ông sáng tác bài thơ Sài Gòn đêm giao hưởng. Ông đã khai thác sự đối lập giữa quang cảnh thành phố phồn hoa đô hội với bộ đội giải phóng giản dị vốn quen với núi rừng ngay trong khổ mở đầu bài thơ: Chúng tôi là một mảng màu xanh/Trong rực rỡ bức tranh Sài Gòn đêm giao hưởng/Đôi dép lốp bước lên thềm Nhà hát Lớn/Để rơi mấy hạt bụi đường trường... “Màu xanh” ấy là sắc màu quân phục. Không chỉ đêm giao hưởng, mà ngay ban ngày, sắc quân phục của người chiến sĩ chiếm một vị trí đặc biệt trong màu sắc Sài Gòn, với ánh mắt tin cậy của nhiều người. Màu quân phục và đôi dép cao su là vật “bất ly thân” của người chiến sĩ, không chỉ theo người chiến sĩ khi làm nhiệm vụ, mà ngay cả khi dạo phố, vui chơi hay xem văn nghệ.
Bài thơ này không đề cập tới chuyện thắng và thua, Anh Ngọc đã dựa vào hai chữ “giao hưởng”, giao hưởng âm thanh của âm nhạc để nói sự “giao hưởng”, hòa hợp của lòng người sau chiến tranh: Ngửa bàn tay gặp bàn tay nhạc trưởng/Mở tấm lòng gặp tấm lòng giao hưởng/Bổng trầm cung bậc tìm nhau… Bài thơ này, về mặt nào đó, đồng điệu với ca khúc Mùa xuân đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao, với điệp khúc Từ nay người biết thương người… Trong bài thơ, tác giả có sử dụng một nhân vật “em” trữ tình để bộc lộ cảm xúc của mình: Phút này đây ta dành trọn cho nhau/Anh trọn của em đến tận cùng ý nghĩ/Giai điệu đẹp như hồn em cao quý. Người “em” trữ tình này không xác định cụ thể, có thể ở hậu phương, có thể trên đường hành quân và không loại trừ là cô gái thành phố, nơi vừa mới được giải phóng vì hoàn cảnh đất nước chia cắt mà nay gặp lại nhau, thoáng nét ngậm ngùi êm dịu phút đoàn viên.
Và cuối cùng trong câu chuyện với chúng tôi, nhà thơ Anh Ngọc đã nhắc lại lời của Đại tướng Trần Văn Trà trong buổi mít-tinh quân quản Sài Gòn: “Hôm nay, không có chuyện ai thắng ai thua giữa người Việt Nam với nhau, chỉ có dân tộc Việt Nam thắng Mỹ mà thôi”. Rồi ông trầm ngâm: “Bây giờ nhìn lại thì thấy hồn thiêng dân tộc đã nâng bước chúng ta vượt qua thời kỳ máu lửa đầy mất mát, cho chúng ta một ngày thống nhất, hòa bình và độc lập”.