Trần Bá Lãm là học trò của Tiến sĩ Nguyễn Quí Hiển. Ông đậu giải nguyên khoa thi hương năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779) lúc tròn 22 tuổi. Năm Cảnh Hưng thứ 44, ông phụng mệnh làm phúc khảo trường thi Nghệ An khoa Quý Mão (1783). Năm Nhâm Ngọ (1786), khi hoàng tự tôn của vua Lê Hiện Tông là Lê Duy Kỳ lên nắm chính sự, ông sung chức thị nội văn chức.
Khi Lê Duy Kỳ chính thức lên ngôi, đặt niên hiệu Chiêu Thống, để thu phục nhân tâm và theo đề nghị của Nguyễn Hữu Chỉnh, cho mở chế khoa để thu phục người tài. Số người vào điện thi có tới trên 200, chỉ có hai người được lấy đỗ. Trần Bá Lãm ở vị trí đậu đệ nhất giáp.
Do sinh vào thời thác loạn nên ông chẳng được yên để yến vũ tu văn, bước hoạn đồ của ông chịu nhiều thăng trầm trôi nổi, phải trải qua ba triều đại và năm đời vua. Ông được giữ chức Cấp sự trung rồi thăng Hàn lâm viện Hiệu úy, rồi được bổ giữ chức Hải Dương đốc đồng tham hiệp nhung vụ, được phong tước Canh nhạc bá dưới thời Lê Chiêu Thống.
Con Trần Bá Lãm là Trần Bá Kiên đậu giải nguyên khoa Đinh Mão (1807) sung chức Phó sứ, nhưng vì Chánh sứ không đi được nên ông thay quyền.
Ở Kim Hoàng còn có dòng họ Lý Trần (gốc họ Đặng) có cụ Đặng Trần Diễm là thầy dạy cho 3 người con đều đỗ tiến sĩ, được nhận sắc phong của vua “Giáo tử đăng khoa”. Các con của ông là những nhà khoa bảng nổi tiếng: Lý Trần Quán, Lý Trần Dự, Lý Trần Thản.
Cái chết khảng khái của người thầy
Lý Trần Quán đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766) đời Lê Cảnh Hưng, làm quan tới chức Hiến sát xứ Hải Dương, Hiệp trấn Sơn Tây. Lý Trần Quán là một tác gia có tiếng đương thời, để lại cho đời tác phẩm “Thiên Nam liệt khoa hội tuyển” và một số thơ văn khác.
Tháng 6 âm lịch năm 1786, quân Tây Sơn vào Thăng Long, quân Trịnh vỡ trận. Chúa Trịnh là Đoan Nam vương Trịnh Khải liệu không cầm cự nổi, đã phải rời bỏ kinh thành, đi theo chỉ còn vài cận thần cùng hơn ngàn quân dắt díu nhau đến địa phận huyện Yên Lãng.
Đến nơi, chúa hỏi cận thần rằng ở địa phương này có ai giỏi, vào hàng tiến sĩ không? Có người biết chuyện chỉ chỗ ở của Tiến sĩ Lý Trần Quán tại làng Hạ Lôi, giữ chức Tri Lại phiên tại phủ chúa và đang đi chiêu phủ tại địa phương.
Lý Trần Quán là người nổi tiếng hiếu nghĩa. Có lần ông tâm sự với người thân: “Ta nay đã bốn chục tuổi đầu, nhưng những việc đã làm trong quãng đời vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với đạo làm người”.
Khi Lý Trần Quán đến yết kiến, chúa Trịnh Khải nhờ tìm người bảo vệ và đưa đến địa giới huyện Yên Lãng. Quán tiến cử người học trò cũ tên Nguyễn Khang. Sợ để lộ tung tích chúa Trịnh, Quán nói nhờ Khang đưa đường cho quan Tham tụng Bùi Huy Bích.
Song Khang biết rõ chuyện thực và báo cho quân Tây Sơn tới bắt Trịnh Khải. Chúa Trịnh Khải tự tử trên đường đi. Khi bị Lý Trần Quán chỉ trích, Nguyễn Khang đáp: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu mình”.
Tự xét thấy mình không bảo vệ được chúa và không biết dạy dỗ học trò, Lý Trần Quán tự tìm tới cái chết. Ông nhờ chủ trọ mua cho mình một quan tài, mặc nguyên mũ áo nằm vào trong, rồi sai người đem chôn sống sau hai ngày khi Trịnh Khải chết.
Lý Trần Quán được truy phong Công bộ Thượng thư tước Dực Quận công, được phong làm phúc thần. Đời sau có đôi câu đối về hành trạng của ông rằng: “Khảng khái cần vương dị/ Thung dung tựu nghĩa nan” (nghĩa là: Khảng khái làm việc cần vương thì dễ, ung dung làm trọn đại nghĩa thì khó).
Em ruột Lý Trần Quán là Lý Trần Dự, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1769) đời Lê Cảnh Hưng, làm quan đến chức Đốc đồng Lạng Sơn, Hàn lâm viện Đãi chế. Lý Trần Dự là con rể Tiến sĩ Lê Trọng Thứ - cha của Lê Quý Đôn.
Người em cùng cha khác mẹ là Lý Trần Thản cũng đỗ tiến sĩ, giữ chức Tả tư giảng dạy Trịnh Khải. Do tài kiêm văn võ, ông được vua giao trấn giữ Hưng Hóa (Phú Thọ, Sơn Tây), đốc lĩnh các đạo quân ở Tuyên Hưng, được phong Tuy Viễn hầu, Thượng thư Bộ Binh. Hiện nay, tại đình Thanh Liệt thờ Chu Văn An và cháu bốn đời Chu Đình Báo còn lưu nhiều dấu tích của Lý Trần Thản.
Ngoài các vị đại khoa, làng Kim Hoàng còn 31 người đỗ Hương cống, Cử nhân và nhiều người đỗ Sinh đồ, tú tài. Bởi vậy, từ xa xưa Kim Hoàng đã trở thành vùng đất văn hiến và được liệt vào hàng “tứ danh hương”: Mỗ, La, Canh Cót.